Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
86844

LỜI NÓI ĐẦU

Thọ Hải là một xã ở vùng trung trung tâm của huyện Thọ Xuân; trước cách mạng tháng Tám xã gồm có 6 thôn: Vùng ngoại đê: thôn Hải Khoát, thôn Mậu Công, và làng Rạch. Nội đê: thôn Phấn Thôn, thôn Công Thành và thôn Hưng Nhượng.

Từ thuở xa xưa, các thế hệ người dân Thọ Hải đã đến đây mở đất, lập làng, trải qua bao gian lao vất vả đấu tranh chống chọi với thiên tai, giặc ngoại xâm để tồn tại và phát triển. Chính vì, vậy mà tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của người dân đã được hun đúc, Thọ Hải đã sản sinh cho đất nước nhiều người con tiêu biểu như: Lê Văn Linh, Lê Đình Ngang, Lê Liệt, Lê Dũng Liêm, Lê Hoàng Đạt… là những người con tiêu biểu trong khởi nghĩa Lam Sơn.

Thọ Hải có nhiều dòng họ tiêu biểu trong chống giặc ngoại sâm như: dòng họ Mậu Công, dòng họ Công Thành cùng với anh hùng dân tộc Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa chống quân Minh… năm 1858, thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, có nhiều người con của Thọ Hải đã tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trong xã đã đoàn kết một lòng, sáng tạo trong lao động, anh dũng trong chiến đấu, tích cực tham gia cùng quân và dân cả nước tiến hành cuộc cách mạng giành, giữ, xây dựng chính quyền và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, ghi thêm những trang sử vẻ vang vào truyền thống quê hương. Cùng với truyền thống cách mạng của dân tộc, Đảng bộ xã Thành Trực được thành lập đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ, khẳng định vai trò to lớn, hạt nhân lãnh đạo của phong trào cách mạng xã nhà.

Với truyền thống cách mạng vẻ vang, quá khứ hào hùng, để đáp ứng tâm tư nguyện vọng của đông đảo nhân dân và cán bộ, đảng viên trong xã, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã ra Nghị quyết về sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử xã Thọ Hải.  Sau một thời gian tiến hành sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, đến nay cuốn “Lịch sử xã  Thọ Hải” đã hoàn thành và ra mắt bạn đọc. Đây là trách nhiệm, tình cảm với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân Thọ Hải đối với các thế hệ cha anh đi trước, đồng thời là nguồn cổ vũ lớn lao, góp phần khơi dậy niềm tự hào, lòng tin yêu và phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới ngày nay. Cuốn sách cũng là tư liệu qúy báu giúp các thế hệ con em xã Thọ Hải đang sinh sống, học tập và công tác trên quê hương hay khắp mọi miền Tổ quốc và ở cả nước ngoài hiểu thêm mảnh đất, con người Thọ Hải, từ đó một lòng hướng vê quê hương yêu dấu.

Cuốn sách được ra mắt bạn đọc là nhờ sự chỉ đạo kịp thời, sát sao của Ban Thường vụ Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ, là sự cố gắng không mệt mỏi và tinh thần trách nhiệm của Ban sưu tầm, biên soạn cũng như sự ủng hộ nhiệt tình cung cấp tư liệu của các đồng chí đảng viên lão thành, các thế hệ lãnh đạo và nhiều đồng chí đảng viên trong Đảng bộ. Đặc biệt, trong quá trình sưu tầm, biên soạn Ban Chấp hành Đảng bộ đã nhận được sự chỉ đạo, giúp đỡ đầy trách nhiệm của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Thọ Xuân. Nhân dịp này, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban chỉ đạo xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các tập thể và cá nhân đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành cuốn sách này.

Mặc dù công tác sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn đã cố gắng đến mức cao nhất nhưng vì thời gian có hạn, nguồn tư liệu còn lại quá ít, khả năng và kinh nghiệm biên soạn hạn chế... nên cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Chấp hành Đảng bộ rất mong nhận được sự cộng tác góp ý chân thành của các đồng chí cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc xa gần để lần tái bản sau được tốt hơn.

Thọ Hải , ngày 1 tháng 11 năm 2018

T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ

                                                                                                                                           

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG I

ĐẤT VÀ NGƯỜI THỌ HẢI

 

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU  KIỆN TỰ NHIÊN

1. Vị trí địa lý

Xã Thọ Hải nằm ở phía tây nam huyện Thọ Xuân, cách trung tâm huyện 5 km, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 40km về phía tây bắc, với tổng diện tích tự nhiên 708,73 ha, (Trong đó đất nông nghiệp là 447,33ha chiếm 63,11%, đất phi nông nghiệp là 146,31 ha chiếm 27%, đất chưa sử dụng 0.45 ha chiếm 0,08%). Dân số là 5.165 người, được sinh sống ở 09 thôn hành chính chia thành 09 làng văn hoá. Đảng bộ Thọ Hải có 315 đảng viên sinh hoạt ở 11 chi bộ, (Trong đó có 07 chi bộ thôn và 3 chi bộ trường học, 1 chi bộ quỹ tín dụng nhân dân xã Thọ Hải).

Xã Thọ Hải nằm bên bờ sông Chu và tiếp giáp với các xã: Phía đông giáp xã Xuân Hòa; phía tây giáp xã Thọ Diên; phía nam giáp xã Xuân Hưng và xã Xuân Giang; phía bắc giáp xã Thọ Minh và xã Thọ Lập.

Vị trí địa lý của xã thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho xã tiếp cận nhanh với thị trường vùng lân cận, thúc đẩy quá trình giao lưu hàng hóa, thích ứng với nền kinh tế thị trường. Hệ thống giao thông thủy lợi rất thuận tiện; Thọ Hải có đường Quốc lộ 47C chạy qua, đường liên xã, liên thôn tạo thành mạng lưới giao thông thuận tiện, là xã đồng bằng trung du địa hình tương đối bằng phẳng. Ngành nghề chính của địa phương là sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và kinh doanh buôn bán…

Địa hình:  Là xã đồng bằng nằm ở vùng hữu ngạn sông Chu nên Thọ Hải có vị thế thuận lợi: cận thị, cận giang, cận lộ, chợ Hương. Cùng với các địa danh Bái Thượng, Lam Sơn, Sao Vàng, Mục Sơn tạo nên một vùng kinh tế trù mật, một vùng đất với những di tích lịch sử có nhiều du khách viếng thăm. Thiên nhiên đã ban tặng cho Thọ Hải một vùng đất màu mỡ (không có núi, không có đồi), lại được người xưa để lại gần 3 km nông giang, biến vùng đất ngày xưa chỉ trồng trọt một vụ lúa bấp bênh (vì lụt, hạn) nay trở thành hai, ba vụ lúa, nên việc bố trí khu dân cư và đầu tư xây dựng cở sở hạ tầng rất thuận lợi, ngoài ra Thọ Hải còn có vùng chuyên canh, thâm canh để phát huy lợi thế và phát triển nền kinh tế trong xã một cách phong phú, đa dạng.

Xã Thọ Hải cách thành phố Thanh Hóa 40 km về phía tây (Quốc lộ 47C được rải nhựa từ năm 1910, từ thành phố Thanh Hóa qua Rừng Thông, Hậu Hiền, xã Thọ Hải từ dốc Hương là đến phố Tứ Trụ của xã Thọ Diên. Từ năm 1914, đã có xe khách chạy qua, mỗi ngày có hai chuyến ngược lên Bái Thượng và hai chuyến về Thanh Hóa. Từ năm 1940, đã thấy có xe Va-tuya (xe con) sang trọng chạy qua phố Tứ Trụ lên Bái Thượng hoặc sang phố Châu (Ngọc Lặc). Những năm kháng chiến chống Pháp, đường 47C bị phá hủy, xe cũng bị xếp bỏ. Ngay cả xe tay và người cưỡi cũng không còn qua lại trên đường.

2. Tài nguyên thiên nhiên

Thủy Văn: Thọ Hải có đuờng thủy chạy qua trên sông Chu (sông Chu xưa gọi là Lương Giang. Lương Giang còn có tên là sông Sủ). Năm 1898, khi người Pháp cai trị đã thiết kế xây dựng đập Bái Thượng, tiếng Pháp không có chữ Sủ, đã phiên âm Sủ thành Chu. Tên sông Chu có từ đấy, bắt nguồn từ cao nguyên Hủa phăn (Lào), có hai nhánh là sông Đạt và sông Âm. Khi chảy vào huyện Thọ Xuân thành sông Chu. Sông Chu chảy qua Thọ Hải tạo thành đường ranh giới với Xuân Thiên vốn là đường giao thông thủy rất thuận lợi. Trên dòng sông Chu người xưa đi lại tấp nập như trên bộ. Trên dòng sông thuyền bè xuôi ngược đem theo cá mắm, muối… và sản phẩm của miền xuôi lên chợ Hón. Rồi cũng trên dòng sông này gỗ nứa, chè, măng… của miền ngược xuôi dòng về với thành phố Thanh Hóa, Quảng Xương, Hoằng Hóa…

Nằm trên bờ sông Chu cũng tạo cho người Thọ Hải nếp sống sông nước: tắm sông, uống nước sông, đêm nằm nghe giọng hò của đò Giàng, đò Hới. Nhiều người đi buôn bán với vùng xuôi, vùng ngược, vào Nam ra Bắc. Nghe nhịp đập của con đò, người đi buôn mang hàng ra đã có người giúp bày lên khoang thuyền gọn gàng. sáng ra đã về đến Thanh Hóa. Bán hàng, mua hàng xong lại ngược dòng trở về, trên dòng sông này, các vua Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông... cũng đã từng xuôi ngược về thăm đất tổ Lam Sơn.

Trên dòng sông Chu, người Pháp đã xây dựng đập thủy nông Bái Thượng, đây là công trình thủy lợi lớn nhất xứ Đông Dương thời bấy giờ; công trình này phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa và vơ vét thóc gạo của thực dân Pháp. Công trình được thăm dò thiết kế từ năm 1898 nhưng phải dừng lại vì chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Công trình, được khởi động lại sau khi chiến tranh thế giới thứ I kết thúc, Pháp là nước thắng trận. Dự án được toàn quyền Đông Dương duyệt chính thức vào ngày 24-01-1918 và khởi công vào ngày 28-3-1920. Đây là đập ngăn nước dài 160m, rộng 21m ở chân và 3m ở bề mặt, do đó khi nhìn, thấy mặt hông của đập là hình thang. Hai đầu của con đập được dựa vào dãy núi vững chắc, nó có thể nâng mức nước thấp từ 11m, lên 16m80. Toàn bộ công trình được xây bằng bê tông cốt thép. Khi xây móng, phải xuống độ sâu 2m mới gặp nền đá mà độ cao, thấp lại không đều nhau, do đó bề cao nhất của công trình đã lên đến 21m. Toàn bộ con đập chi phí hết 1.600.000 đồng tiền Đông Dương. Trên hữu ngạn và nối liền với con đập là cống 7 cửa để tháo nước thừa vào âu với vận tốc 4m3/giây để chảy vào con kênh; thành hai nhánh theo đường chỏm. Kênh Bắc chạy qua Thiệu Hóa, Đông Sơn cho tới tận thành phố Thanh Hóa; Kênh Nam ở Nông cống chảy sát ranh giới phía Tây châu thổ và cùng đến sông Yên ở gần ga Thị Long. Cả hai con kênh dài 110 km đã dẫn nước vào các chi giangtiểu chi giang mà lưu lượng nước được điều chỉnh từ những cửa cống rồi đến các mương máng nhỏ chạy thẳng vào các cánh đồng (các máng nhỏ là do dân các địa phương tự làm theo sự hướng dẫn của các nhân viên sở Công chính trong nhiều năm), đã đưa tổng chiều dài của toàn bộ hệ thống cung cấp nước tưới lên con số 2.135km, tính ra 1km tưới được 28ha. Chi phí tổng cộng cho toàn công trình là 4.760.000đ bạc Đông Dương. Theo tài liệu thì riêng công trình đập Bái Thượng đã phải sử dụng đến 5.600m3 bê tông, đắp 7 triệu m3 đất đá.

Sau 7 năm thi công công trình Thủy nông sông Chu (đập Bái Thượng) đã hoàn thành đảm bảo tưới nước cho trên 60.000 ha đất canh tác ở 6 huyện trong tỉnh. Năm 1952, máy bay Pháp ném bom phá hủy đập Bái Thượng. Sau khi hòa bình lập lại (cuối năm 1954), đập được sửa chữa và đưa vào sử dụng. Nhờ hệ thống nông giang mà ruộng đất Thọ Hải từ một vụ bấp bênh thành hai vụ ăn chắc.

Từ Thọ Hải ngược lên Mục Sơn gặp đường Hồ Chí Minh, từ đây vào Nam hay ra Bắc đều thuận lợi. Đi Hà Nội 150 km, Nghệ An 100 km đều rất dễ dàng. Từ đây có đường nhựa qua Ngọc Lặc, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn... để qua Sơn La, Điện Biên Phủ hoặc lên Na Mèo đều dễ dàng.

Thọ Hải là vùng có vị trí “cận thị, cận giang, cận lộ” thuận lợi cho việc đi lại. Thọ Hải có chợ Hón là một chợ ở Thọ Xuân trong thời Nguyễn mà sách Đại Nam nhất thống chí đã chép là chợ mà “lái buôn bốn phương và các hộ đến họp nhiều". Chợ được họp ngay trên bờ sông Chu, ở phía dưới là một bến sông lớn mà thuyền, bè đậu san sát. Xưa kia, chợ Hương là nơi buôn bán rất nhiều các hàng nông sản và lâm sản như thóc, gạo, bông, tơ lụa, luồng gỗ, mật ong, nấm hương, mộc nhĩ, măng khô, măng tươi, củ nâu, mây, song... Các lái buôn người Hoa và ở Bắc Kỳ thường đến đây mua cất các loại hàng để mang ra Hà Nội, Hải Phòng. Người Mường, người Thái từ các huyện Thường Xuân, Lang Chánh cũng xuống đây để mua bán hàng hóa rất đông. Bánh gai, bánh bột lọc, nem chua là đặc sản nổi tiếng mà khách gần, xa chẳng bao giờ quên khi rời chợ.

Khí hậu: Thọ Hải được chia thành hai khu vực: nội đê và ngoại đê. Nhiệt độ trung bình năm là 23,6°c. Mùa hè nóng, mùa đông lạnh. Những ngày nóng diễn ra trong tháng 6, ngày nóng nhất lên tới 39°c, ngày lạnh nhất vào tháng 12, có những năm dưới 9oc. Mùa hè trung bình vào khoảng 28 - 30°c, mùa đông trung bình 25°c, năm cao nhất 27°c. Cuối năm 2007 đầu năm 2008, nhiệt độ xuống 9oc. Độ ẩm trung bình 86%, cao nhất 96% và thấp nhất là 67%.

Hằng năm, có hai mùa thay đổi. Mùa đông có gió mùa Đông Bắc thường rét khô và hanh, thổi từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch.

Mùa hè có gió mùa Đông Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8, đưa hơi nước từ biển vào làm khí hậu mát mẻ và có mưa. Mùa hè còn có gió Tây Nam (gió Lào) thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 7 gây nóng và khô hạn, thời gian gió tây từ 12 - 15 ngày, đợt dài 5 - 6 ngày (gió này ảnh hưởng đến lúa Xuân, ngô gieo trồng muộn). Hướng gió thịnh hành là Đông và Đông Nam, tốc độ trung bình l,3m/s, lớn nhất là 20m/s. Từ tháng 7 đến tháng 10 thường có bão đổ bộ từ biển vào, tốc độ gió thường ở cấp 6 - 7, cá biệt có trận cấp 9 - 10, kèm theo mưa to, gây tác hại đến cây trồng và các công trình kiến trúc.

Lượng mưa trung bình trên dưới 1.800mm, năm cao nhất 2.947mm (1925), năm thấp nhất 1.459mm (1936), tháng mưa cao nhất là tháng 9, có những năm đến 15 ngày mưa. Từ tháng 6 đến tháng 10 là mùa mưa chính, chiếm 85% lượng mưa của cả năm, đây là giai đoạn thường gây ra lũ lụt. Từ tháng 2 đến tháng 5 là mùa khô. Tổng lượng nước các tháng này khoảng 105 - 108mm, bảng 10-15% lượng mưa cả năm. Số ngày có sương mù trong năm từ 21 - 26 ngày, thường xuất hiện tập trung vào các tháng 10, 11 và tháng 12, có tác dụng tăng thêm độ ẩm cho không khí và mặt đất. Với lượng mưa và nhiệt độ như vậy, Thọ Hải có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển cây mía, ngô, đậu, lạc.

Đất đai: Thọ Hải là xã đồng bằng châu thổ do sông Chu bồi đắp, phù sa của sông Chu chảy qua vùng núi macma axit như granit, riolit mang phù sa thô có chứa ít keo séc canxi, magiê bồi đắp nên đồng bằng Thọ Hải nói riêng, Thọ Xuân nói chung.

Nhìn chung đất đai ở Thọ Hải là loại đất nạc dày, tính chất vật lý và địa hình thuận lợi cho canh tác và phát triển cây lúa. Tuy nhiên, độ dày canh tác ở nhiều nơi mỏng, độ phì nhiêu không đồng đều, nếu không chú ý cải tạo thường xuyên sẽ rất chua và nghèo lân. Đây là vùng đất cấy lúa 2 vụ ăn chắc và có thể làm thêm một vụ màu. Nhiều năm qua Thọ Hải đã cố gắng hoàn chỉnh hệ thống thủy nông, hạn chế nước chảy tràn về tiêu thủy địa hình thấp trũng, đồng thời tích cực cải tạo đất bằng cách cày sâu, cày ải tăng cường các loại phân cần thiết (phân chuồng, phân xanh, vôi và lân), nhờ đó mà hiệu quả ngày một cao.

Cho đến năm 2018, trên cơ sở tài nguyên đất đai phong phú, đa dạng, xã Thọ Hải đã hoàn chỉnh việc quy hoạch phân vùng kinh tế, vùng chuyên canh, thâm canh và trong thực tiễn, hiệu quả kinh tế được khai thác từ nguồn lực đất đai ở trong xã. Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, ngoài việc bố trí cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi và nguồn nhân lực một cách hợp lý nhất là các khu vực ven sông đã nuôi cá lồng rất thành công.      

II. DÂN CƯ VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

1.      Quá trình hình thành làng xã

Thọ Hải là một xã ở vùng trung, trung tâm của huyện Thọ Xuân; trước cách mạng tháng Tám xã gồm có 6 thôn: Vùng ngoại đê: thôn Hải Khoát, thôn Mậu Công, và làng Rạch. Nội đê: thôn Phấn Thôn, thôn Công Thành và thôn Hưng Nhượng. Ở các thôn thì nhân dân lại ở lẫn lộn với nhau. Trước cách mạng Tháng Tám là tổng Diên Hào, huyện Thọ Xuân nay là xã Thọ Hải huyện Thọ Xuân. Xã Thọ Hải, là một xã lớn, đất rộng, người đông, ruộng đồng phì nhiêu, bát ngát, mầu mỡ, là một xã có cả màu và lúa, mỗi năm 2 vụ. Ngoài lúa ra, xã còn có một vùng bãi mầu mỡ, phì nhiêu thu hoạch quanh năm. Một vùng bãi dâu xanh tốt, Nhân dân lao động cần cù, làm ruộng, chăn tằm, nghề làm hương, đan lát.

Nhân dân trong xã lại có truyền thống yêu nước từ lâu đời và đã đứng lên chống ngoại xâm như các vị tổ tiên họ Mậu Công, họ Công Thành cùng với anh hùng dân tộc Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa chống quân Minh, hưng quốc… vào khoảng thế kỷ 14. Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, các vị anh hùng dân tộc: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám đã lãnh đạo Nhân dân chống lại ngoại xâm, để giành lại độc lập cho dân tộc. Thời kỳ (1885 - 1896), ở Thọ Hải cũng có hai ông, sớm giác ngộ và tham gia như cụ Lê Văn Cửu (thân sinh ra đồng chí Lê Xuân Sinh sau này) gọi là cụ Cai Cô ở làng Phấn Thôn, cụ Quyền Điển (thân sinh đồng chí Lê Xuân Luyến) ở thôn Hưng Nhượng, tổng Diên Hào (nay là xã Thọ Hải) với đất đai phì nhiêu mầu mỡ, nhân dân lại cần cù, siêng năng lao động thì phải được cơm no, áo ấm, sung sướng nhưng trái lại cuộc sống của Nhân dân vẫn khổ cực, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, quanh năm ngày tháng đi cày thuê, cuốc mướn cho bọn hào lý trong làng; ruộng đất, thì bọn hào lý chiếm hết, chúng tìm mọi cách để bóc lột Nhân dân, bóc lột đủ điều, người nông dân với sưu cao, thuế nặng. Mỗi năm cứ đến vụ sưu thuế, bọn cai lính ở trên về đôn đốc thì chúng lại gông cùm đánh đập nhân dân, có người không có tiền nộp phải bán vợ, đợ con, bán nhà, cố ruộng để lấy tiền nộp sưu, nộp thuế. Ngoài ra bọn hào lý còn bày ra cúng tế thần thánh, vọng ngôi phe giáp, đặt ra tục lệ ma chay, cưới xin, để chúng chè chén, đục khoét, như Tố Hữu đã nói: “Có làm mà chẳng có ăn”[1].

Bởi sự áp bức bóc lột quá tàn nhẫn của bọn hào lý củ thực dân Pháp, với truyền thống yêu nước, căm ghét thực dân Pháp, nhân dân Thọ Hải hưởng ứng tham gia đấu tranh tron các cao trào, như phong trào Cần Vương, Đông Kinh nghĩa thục.

Các vị có phẩm hàm, quan chức. Nhưng ở Thọ Hải nói riêng Thọ Xuân nói chung, ta thấy từ các vị khoa mục, chức sắc, đến thí sinh, khóa sinh đều được ngồi ở ngôi thứ trọng vọng nhất. Điều này chứng tỏ ở Thọ Hải, có điểm khác biệt so với nhiều thôn xã khác trong tỉnh. “Tước” và “Xỉ” cũng được coi trọng như nhau trong việc bầu người đứng đầu “giáp” (cũng như tiên chí):

“Hương ước là nếu người nào phạm phải khoán ước của hương loại nặng, và người tàn tật thì không được dự bầu”[2]. Cho hạng thứ sinh, khóa sinh được ngồi tại gian giữa đình làng (tất nhiên theo tứ bậc hạng) là vinh dự của người theo nghiệp bút nghiên. Ngay từ khi bắt đầu cắp sách đi học đã được trừ tạp dịch.

Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân hiện nay là một đơn vị hành chính nằm trong 27 huyện, thị, thành phố của tỉnh Thanh Hoá, có 38 xã và 3 thị trấn nằm dọc đôi bờ tả ngạn của sông Chu, có tổng diện tích tự nhiên là 29.672ha, dân số là 2.2.000 người. Nhìn trên bản đồ huyện Thọ Xuân ngày nay, xét về phạm vi cương vực lãnh thổ, về cơ bản vùng đất Thọ Xuân hiện tại vốn là đất của huyện Lôi Dương thuộc phủ Thọ Xuân (năm Minh Mệnh thứ 2 - 1821) và một phần huyện Lương Giang (sau đổi thành huyện Thụy Nguyên) bao gồm 4 tổng Phú Hà, Quảng Thi, An Trường và Thử Cốc thuộc phủ Thiệu Hoá (năm Gia Long thứ 14 - 1815).

Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), để tăng cường sự thống nhất bộ máy hành chính. Lê Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa Tuyên và 1 phủ Trung Đô. Đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Thanh Hoá thời kỳ này gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu - đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thì đổi Thanh Hoá thừa tuyên thành Thanh Hoa thừa tuyên. Diên cách thời kỳ này bao gồm 4 phủ: phủ Thiệu Thiên (8 huyện): Đông Sơn, Lôi Dương, Yên Định, Vĩnh Ninh, Bình Giang, Lương Giang, Cẩm Thủy, Thọ Xuân; phủ Hà Trung (gồm 4 huyện): Tống Giang, Hoằng Hoá, Nga Giang. Thuần Hựu; phủ Tĩnh Ninh (gồm 3 huyện): Nông Cống, Triệu Sơn, Ngọc Sơn; phủ Thanh Đô (gồm 1 huyện, 4 châu): huyện Thọ Xuân, châu Quan Da, châu Lang Chánh, châu Tàm, châu Sầm.

Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), gộp huyện Thọ Xuân vào châu Lang Chánh làm hai tổng: Mộc Lộc và Quân Nhân, tức là bốn động Trịnh Vạn, Mậu Lộc, Quân Thiện, Lâm Lự, lại tách hai tổng ấy vào châu Thường Xuân mới đặt thêm. Như thế huyện Thọ Xuân bấy giờ là tương đương với hai tổng Mậu Lộc và Quân Nhân huyện Thường Xuân ngày nay, khác với huyện Thọ Xuân ngày nay.  Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thuộc phủ Thanh Đô dưới triều vua Lê Thánh tông. Phủ Thanh Đô tồn tại một thời gian 352 năm từ năm 1469 đến năm 1821, đời vua Minh Mạng (triều Nguyễn) đổi làm phủ Thọ Xuân. Lúc này huyện được đổi tên thành phủ. Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826) huyện Lôi Dương thuộc phủ Thọ Xuân. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) lại hợp nhất huyện Thọ Xuân miền núi vào châu Lang Chánh. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đổi tên Thanh Hoa thành Thanh Hoá. Cho phủ Thọ Xuân mới kiêm thêm châu Thường Xuân và châu Lang Chánh. Sau năm 1945, bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hoá gồm 21 huyện, thị xã (các tên phủ, châu đều đổi ra huyện cả). Còn huyện Thọ Xuân dưới chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà (Thọ Xuân miền xuôi), tương ứng với vùng đất hiện tại vốn là đất huyện Lôi Dương và một phần huyện Thụy Nguyên mà đặt tên là huyện Thọ Xuân như đã được trình bày ở phần trên.

Xã Thọ Hải hiện nay, trước cách mạng tháng Tám bao gm: xã Diên Hào, thôn Phấn (tên nôm là làng Bún), xã Hương Phấn, thôn Công Thành xã Hương Phấn, thôn Mậu Công xã Hải Lịch, thôn Rạch. Các làng có bộ máy quản lý gồm: Lý trưởng, người đứng đầu của làng, quản lý mọi việc như thu sưu, thuế... Có con dấu riêng hình chữ nhật, dùng mực đen. Phó lý: Người giúp Lý trưởng, thay Lý trưởng vắng mặt. Hương bạ: Thư ký của làng, giữ việc sinh, tử, giá thú, thổ trạch... Có con dấu riêng hình bầu dục. Hương kiểm: Coi việc trật tự trị an. Hương bản: Giữ quỹ, tài sản của làng. Vsau có thêm các chức như Hương dịch, Hương Nông, Đoàn Xã.

Sau cách mạng tháng Tám đổi tên là xã Đô Lương bao gồm các làng của xã Thọ Lâm, Thọ Hải, Thọ Diên và Xuân Hoà. Tiếp đó vào năm 1949 lại đổi gọi là xã Thọ Sơn gồm Thọ Lâm, Thọ Hải và Thọ Diên.

Hiện nay, xã Thọ Hải gồm các làng: làng Hương, làng Buốn (Bún), làng Hoá (Hỏn), làng Rạch, Làng Công Thành, Làng Mậu Công. Nhà thờ họ Lê Đình thuộc làng Công Thành, xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân.

2. Truyền thống lịch sử và phong tục tín ngưỡng

Đình Hương Nhượng nằm trên địa bàn thôn Hương Nhượng, xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Xưa nơi đây thuộc tổng Diên Hào, thôn Hương Nhượng, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa.

Từ trung tâm thành phố Thanh Hoá đi hướng tây nam theo Quốc lộ 47A qua huyện lỵ Thọ Xuân đến km 39 rẽ phải khoảng 200m là đến di tích đình làng Hương Nhượng.

Hương Nhượng là một làng cổ nằm bên hữu ngạn sông Chu (Lương Giang), một đầu mối giao thông quan trọng trong những năm Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Làng mạc ở đây trù phú, đất đai bằng phẳng, mầu mỡ, rất thuận lợi cho việc thâm canh sản xuất. Đây còn là nơi có nghề trồng dâu nuôi tằm từ xa xưa.

Có thể nói đây là một vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời và phong phú. Thọ Hải là quê hương của vị Khai Quốc Công Thần đầu thế kỷ XV Khanh An Hầu Lê Văn Linh. Quanh Thọ Hải trong phạm vi khoảng trên dưới 10km2 còn là quê hương và nơi phát tích của hai vị vua khai sáng cho hai triều đại phong kiến của dân tộc ta là Lê Đại Hành (thời Tiền Lê) và Lê Thái Tổ (thời Hậu Lê).

Các làng dọc hai bờ sông Chu, quanh vùng này cũng là nơi sinh ra nhiều vị Khai Quốc Công Thần, tướng lĩnh gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV như: Lê Nhữ Lãm (Thọ Hải), Lê Văn An (Xuân Lam), Trương Lôi (Xuân Bái), Trương Chiến (Xuân Thiên), Lê Lý (Hải Lịch), Vũ Uy (Mục Sơn), Trần Lựu (Đàm Thi), Lê Lai (Bái Đô)...

Theo bản thần phả của làng thì Đình Hương Nhượng thờ vị Phúc Thần Thành Hoàng làng là Thái Úy Từ Quốc Công Lê Khả Lãng, Khai Quốc Công Thần thời Hậu Lê.

Phong tục tín ngưỡng ở Thọ Hải

Thọ Hải có những phong tục, tập quán riêng như ma chay, cưới hỏi, lễ tết. Ngày xưa các làng có nhiều ngày tết, ngày hội. Đấy là dịp bà con xa gần, con cái đi xa về viếng tổ tiên, thăm cha mẹ, làng xóm. Trong các ngày lễ tết ấy có tết Nguyên Đán, tết Khai Hạ (7/1), tết Thượng Nguyên (15/1), tết Hàn Thực (3/3), Phật Đản (15/4), tết Đoan Ngọ (5/5), Vu Lan (15/7), Trung Thu (15/8), Trùng Cửu (9/9), Song Thập (10/10), tiễn Táo quân (23/12)... Ngày nay, tục lệ lễ tết được giảm đi nhiều, chỉ còn có các lễ tết như sau:

Tết Nguyên Đán

Cũng như các vùng khác, tục ăn tết có từ xa xưa. Chiều 30 tết, các nhà dựng cây nêu để tổ tiên biết đường về ăn tết, dùng vôi vẽ cung tên để ngăn chặn tà ma vào nhà. Nhà dù nghèo cũng phải có cân thịt, nồi bánh chưng, trẻ con được manh áo mới. Đêm 30 mọi nhà đều cúng giao thừa, đón chờ một năm mới tốt lành. Con cháu cùng chúc tết ông bà, người lớn “lì xì” mấy đồng tiền lẻ mừng tuổi các em. Rồi đi chúc tết hàng xóm, họ hàng. Theo tập quán, dẫu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ nghề gì, hằng năm mỗi khi tết về cũng mong muốn tha thiết được trở về nhà sum họp gia đình trong ba ngày tết. Ngày tết là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.

Đây là dịp để các gánh hát của các làng hoạt động, có khi đến hết tháng Giêng vẫn còn đi lưu diễn ở nhiều nơi. Cũng cần nói thêm trước tết Nguyên Đán một tuần vào ngày 23 tháng Chạp, người ta đã làm lễ tiễn ông Công. Chiều 30 tết đi chập mả, đón ông bà tổ tiên về ăn tết.

Sau 3 ngày tết lại trở lại với công việc làm ăn bình thường. Tuy vậy, không khí tết vẫn còn đến hết tháng Giêng.

 

  Tết Khai Hạ

Còn gọi là ăn tết lại, diễn ra trong một ngày, ngày 7 tháng Giêng. Tết khai hạ có nghĩa là tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày xuân mới. Theo cách bói toán của người xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng Một ứng vào , mồng hai: chó, mồng ba: lợn, mồng bốn: dê, mồng năm: trâu, mồng sáu: ngựa, mồng bảy: người, mồng tám: lúa. Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống gì thuộc về ngày ấy, cả năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng 7 trời nắng ráo thì người ta tin rằng cả năm người được khoẻ mạnh, gặp nhiều may mắn, tốt lành. Mồng 7 hạ cây nêu. Người ta mở ngày tết Khai Hạ là mong mỏi một năm tốt lành, vui vẻ.

Rằm tháng Giêng (tết Thượng Nguyên)

"Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng". Đó là ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, là Rằm tháng Giêng hay tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật tổ A-di-đà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông, tết Thượng Nguyên ngày trước ít nhà tổ chức. Mấy năm gần đây đời sống khá hơn, thì dịp này có nhiều người đi Chùa, trên bàn thờ tổ tiên bày hoa quả, thắp hương.

Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 tháng 5)

Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương, vậy nên mới có câu thơ:

Chưa ăn bánh nếp Đoan Dương

Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra

Theo âm lịch thì ngày 5 tháng 5 là hết Xuân sang Hạ. Đây là khí tiết chuyển mùa nên hay có bệnh thời khí, nhưng cũng là ngày giỗ của Khuất Nguyên - một thi sĩ Trung Hoa cổ đại. Là một trung thần, Khuất Nguyên khi còn làm quan đã can ngăn Hoài Vương. Hoài Vương không nghe, ông phẫn chí gieo mình xuống dòng sông Mịch La tự vẫn. Dân Trung Quốc làm giỗ ông vào ngày 5 tháng 5 và cúng lễ bằng cách ném các loại bánh bao, bánh ngọt, cuốn chỉ ngũ sắc ở ngoài (có ý làm cá khỏi đớp mất) xuống sông.

Ta không mấy ai biết ông Khuất Nguyên và tích đó nên cứ gọi tết 5 tháng 5 là tết "Giết sâu bọ” vì như trên đã nói, tiết này là tiết chuyển mùa nên sâu bọ bệnh tật hay hoành hành.

Vào dịp tết Đoan Ngọ, nhân dân không biết Khuất Nguyên là ai mà coi đây là lễ giữa năm, phòng bệnh, trừ tà. Vào ngày này, các gia đình lấy thứ lá ngải cứu, ích mẫu, lá vối... đem ủ rồi phơi khô làm chè uống quanh năm, vừa để phòng bệnh, chữa bệnh.

Tết Trung Nguyên (Rằm tháng 7)

Tết Trung Nguyên có tên khác là tết Rằm tháng 7, người xưa coi là ngày “xá tội vong nhân”. Do đó, vào ngày này, tại các Chùa thờ Phật thường làm cỗ chay và cầu kinh Vu lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và đồ dùng bằng hàng mã để người dưới “âm ty” dùng. Ngày nay, đến Rằm tháng 7, các gia đình vẫn làm mâm cơm cúng tổ tiên, mấy năm trước không còn đốt vàng mã thì nay lại phục hồi.

Tết Trung Thu (Rằm tháng 8)

Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng gặp nhau để trà tửu, ngâm thơ, ngắm trăng gọi là “thưởng nguyệt”, cỗ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhiều thứ hoa quả khác (có khi được gọt tỉa thành hoa và các hình con giống rất đẹp). Đáng chú ý là các loại đồ chơi Trung thu của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao... và tối đến, trước khi “phá cỗ” là trò chơi múa rồng, múa sư tử, xem đèn kéo quân. Dịp này Đoàn thanh niên xã tổ chức cho các em cắm trại, vì dịp này thường là dịp 19/8 và 2/9 nên tổ chức khá rầm rộ.

Tính ra mỗi năm ngày trước trong dân gian có 12 ngày lễ, tết. Dân ta quen gọi là tết. Ngoài ra, còn có giỗ ông bà, tổ tiên. Nhà giầu có làm lớn, nhà nghèo làm đơn giản, không ai bỏ giỗ. Đấy là ngày nhớ ơn, trả ơn cha mẹ tổ tiên, đoàn tụ gia đình.

Mỗi làng ngày xưa có một cái giếng, đa số dân ăn nước sông, tắm giặt thì dùng nước ao nên có nhiều bệnh như đau mắt hột, bệnh đường ruột. Ốm thì dùng thuốc Nam, thuốc Bắc. Cả xã có một vài cụ lương y, đa số việc chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian bằng thảo dược của địa phương. Mỗi cụ lương y thường chữa được nhiều bệnh, có người lại có một chuyên khoa sâu như đau mắt, bó xương, cảm hàn... Thầy thuốc kê đơn, người nhà bệnh nhân phải lên phố phủ để mua thuốc. Bệnh nặng khó qua thì cầu đảo thần linh, uống tàn hương nước lã. Sau này (năm 1936), phủ Thọ Xuân có Nhà Thương nhưng là nơi dành cho người giàu có, dân nghèo ốm đau lây lất nên tuổi thọ trung bình rất thấp. Tình trạng hữu sinh vô dưỡng rất phổ biến. Việc đỡ đẻ khoán cho các bà mụ với những dụng cụ sơ sài như lách nứa, chỉ buộc…

Tập quán địa phương xưa nay đều cần cù, giản dị, là đất của trai thanh gái lịch, ham học ham làm. Ngày xưa cả xã có mươi gia đình giàu có, khá giả có chiếc xe đạp, có nhà ngói ba gian hai chái, sân gạch, còn hầu hết là nhà tranh, vách đất.

Tình làng nghĩa xóm rất sâu nặng, hễ nhà nào có công việc là bà con kéo đến giúp đỡ; như làm nhà ngói thì rủ nhau gánh đất đắp nền, gánh cát xây nhà, không lấy công.

Nếu làm nhà tranh thì cho nhau vài sào rạ, tối sáng trăng rủ nhau đến đánh tranh giúp. Khi lợp nhà, chỉ cần gọi một tiếng là nam giới trong xóm kéo đến. Người già thì đưa tranh, trai trẻ lên mái lợp. Khi lợp nhà có tiếng hô cát ngõ, cát húc nhé . Nghe rất vui tai. Lợp xong, nhà có thì chiêu đãi xôi chấm mật, nếu không thì chỉ chén chè xanh là xong, không ai phàn nàn gì.

Nhân dân ăn mặc rất giản dị, con trai thì quần nâu, áo vải, con gái mặc váy nhuộm nâu trát bùn cho đen. Con nhà giàu mặc váy đậu, váy lụa. Nam giới đi việc làng phải đội khăn.

Phong tục các làng giản dị, các lệ tục như cưới hỏi, giỗ tết, hiếu hỷ vẫn theo quy định từ xưa nhưng không gây phiền toái, tốn kém.

Từ xưa có tập quán hỏi vợ cho con ngay từ khi mới đẻ. Hai nhà “môn đăng, hộ đối”. Khi vợ có mang đã hẹn hò thông gia. Khi đã thành thông gia, bên nhà trai phải đi tết một năm 3 kỳ: Tết Nguyên Đán, tết Đoan Ngọ, tết 10/10 (tết cơm mới). Cứ thế cho đến năm 18-20 tuổi, nhà trai phải mượn người có uy tín trong làng hoặc thân tình với nhà gái đến xin cưới.

Khi nhà trai đến đón dâu, trẻ nhỏ ở làng xóm nhà cô dâu đem sào, gậy ra chắn ngang đường gọi là rấp rào. Họ nhà trai phải cử người thưởng tiền mới được rút sào cho đi. Cứ thế hết chặng này đến chặng khác. Khi rước dâu có một ông tuổi trung niên vác con dao cò, lưỡi bôi vôi trắng xoá đi trước. Cô dâu về đến nhà chồng, nhà chồng phải bày cỗ cho mọi người đi rước dâu ăn. Mỗi mâm cỗ 4 người, cỗ bắt buộc phải có 1 đĩa xôi, 1 đĩa giò mỡ, 1 đĩa giò lụa, 1 đĩa bánh rán.

Vviệc hiếu mỗi ngõ phải sắm một bộ đòn khiêngxập kiệu để khiêng những ông bà già cả qua đời. Khi nhà có người mất thường để lại một đêm (đã khâm liệm) để con cháu trống kèn thờ đêm.

Sáng hôm sau mới mai táng. Đến 3 ngày, tang chủ phải làm cỗ mời bà con đến phúng viếng, nếu ai quên sẽ bị dân làng quở trách.

Con trai đến 18 tuổi phải xin vọng làng, gia đình phải sắm trầu rượu ra đình xin cho vọng làng. Ngày được vọng làng là ngày 18 tuổi (dù hơn hay kém tuổi ấy cũng được coi là 18). Được vọng làng phải chịu gánh vác công việc làng (nhưng nếu có bằng tuyển sinh, bằng tiểu học thì được miễn), phải đóng thuế thân.

Đủ 18 tuổi con trai được sinh hoạt theo làng văn, làng võ. Làng Văn gồm người có chữ nghĩa. Làng Võ gồm những người đã đi lính.

Các làng có văn chỉ, võ chỉ. Văn chỉ là nơi sinh hoạt của làng văn, thờ Khổng Tử và các nhà khoa bảng của làng. Võ chỉ thờ các vị võ quan của làng đã có công đánh giặc giữ nước. Văn chỉ và võ chỉ có ruộng để thờ tự, cúng lễ.

Tính từ khi lập làng xã, các dòng họ có người đầu tiên khai hoang lập ấp đến nay đã hơn 800 năm. Bao thế hệ cha trước con sau nối tiếp nhau xây dựng một vùng đất hoang vu thành một vùng đất trù mật, dân cư đông đúc, quê hương của nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, của những chiến sĩ cộng sản. Hàng nghìn người Thọ Hải ra đi lập nghiệp, lập thân trên mọi miền đất nước vẫn nghĩ về quê hương, dòng họ với niềm kiêu hãnh về quê cha đất tổ.

Đình Hương Nhượng

Thờ Từ Quốc Công Lê Khả Lãng quê ở thôn Dao Xá, hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa. Theo bản sao gia phả dòng họ Lê chép năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) thì khi nhà Hồ mất, ông theo nhà Hậu Trần (1407-1413) lấy Thái Trương Công Chúa Ngọc Quỳnh và được phong là Phò Mã Đô Uý. Ông từng giúp vua Hưng Khánh và Trùng Quang đánh giặc Minh xâm lược.

Đến năm Quý Tỵ 1413 nhà hậu Trần mất, Phò Mã Đô Úy Lê Khả Lãng về làng Dao Xá, huyện Thụy Nguyên. Năm Mậu Tuất 1418 ông cùng hai con trai lớn là Lê Ngang và Lê Liệt theo Bình Định Vương Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược.

Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi lấy niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhất. Tướng Lê Khả Lãng được phong Thái Bảo, tước từ Quận Công, giữ chức Đồng Tổng Quản Thương Nam Sách vệ chủ quân sự phong tặng Thái Phó Từ Quốc Công. Ông là một trong số 35 vị công thần do chính tay Lê Lợi “ngự danh” (Ngự danh tam thập ngũ danh: “Vi tích lộc hầu, phong tước Từ Quận Công. Do ứng Quốc Sự”)1

Ngày mồng 3 tháng 5 Thuận Thiên thứ 2 năm Kỷ Dậu 1429 Thái Tổ ban biển ngạch cho 93 vị công thần. Ông được phong tước Hầu.2

Năm Hồng Đức thứ 15(1484), ông được phong Thái Bảo Tuyên Dương Hầu. Đến năm Hồng Đức thứ 17 (1486) Ông được tái tặng Thái Phó Từ Quốc Công và được phong Kiểm Hiệu Nhập Thị Kinh Diêm Binh Bộ Thượng Thư - Đô Úy Thái Sư Tả Thánh Văn Vương3.

Thái Phó Từ Quốc Công Lê Khả Lãng sinh được 5 người con trai, đều có công bình Ngô mở nước. Trong đó có hai người ở bậc thượng chí tước công, được bao phong Đại Vương.

Trưởng nam Bình Ngô Khai Quốc suy trung tán trị công thần. Đặc tiến Kim tự, vinh lộc đại phu đại tướng quân thần Vũ Vệ Chưởng lại bộ Bắc xứ. Chánh xứ thái tổ đô quận công Lê Ngang.

 Binh bộ Khai Quốc công thần, Thái Bảo Nghĩa Chính Công Lê Liệt.  Phái ninh hầu Lê Khả An,  đặc tiến kim tự vinh lộc đại phu Thanh Hoa xứ trấn thủ nguyên thái hầu Lê Khả Trung, Thạch hương hầu Lê Khả Thuỵ.

 Từ Quốc Công Lê Khả Lãng mất ngày 25/01 năm Nhâm Tuất Đại Bảo thứ 3 (1442). Được phong phúc thần và thờ ở nhiều nơi. Nơi thờ chính ngày nay ở ngôi đình lớn thôn Hương Nhượng, xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.

Đình Hương Nhượng là di tích lịch sử, văn hoá, công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ dưới triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX. Đây là ngôi đình làng cổ, ban đầu được dựng ở ven bờ sông Chu. Mái lợp bằng tranh đơn giản nên đến mùa mưa bão, lũ lụt đình thường bị đe doạ. Vì vậy, nhân dân ở đây đã rời ngôi đình vào trong giữa làng tại một khu đất rộng, cao và bằng phẳng có chiều dài 64m và chiều rộng 50m với tổng diện tích là 3.200m2. Đi từ ngoài vào, đầu tiên ta gặp cổng tam quan gồm có 4 trụ, 2 trụ lớn cao 4m và 2 trụ nhỏ cao 2m. Tiếp đến là sân đình, được lát bằng gạch bát vuông có kích cỡ 30 x 30cm.

Đình được xây dựng theo kiểu hình chữ đinh (J) với chiều dài là 22,58m; rộng 8,32m. Toàn bộ kiến trúc của đình đều được làm bằng gỗ lim. Đình được chia ra làm 2 phần là tiền đình và hậu đình.

Tiền đình gồm 5 gian, 2 chái. Gian giữa rộng nhất với chiều dài 4,1m rồi đến các gian 2 bên thu hẹp dần có kích thước là 43,2m và 2,8m. Hai chái đều rộng 3,55m.

Mỗi vì kèo ở đây có 4 hàng chân cột. Khoảng cách từ cột quân đến cột cái rộng 1,32m. Cột quân cao 3,12m; đường kính cột là 0,30m. Khoảng cách từ cột cái đến cột cái rộng 2,8m. Cột cái cao 4m; rộng 0,34m. Các chân tảng cột làm bằng đá có kích cỡ như nhau : 0,55 x 0,55m.

Vì kèo ở đây kết cấu theo kiểu chồng giường kẻ bảy. Gồm ba cặp vì đối xứng, được trang trí và chạm khắc tương đối giống nhau. Trang trí ở đình chủ yếu tập trung vào các đề tài như tứ linh (long - ly - quy - phượng), tứ quý (tùng - trúc- cúc - mai) và rồng xen lẫn vân mây, hoa lá.

Hai vì ở giữa là vì số 3 và vì số 4 chạm chỗ cầu kỳ, tỉ mỉ, đường nét chau chuốt. Phía trên vì kèo kết cấu theo kiểu chồng giường giá chiêng, soi gờ chỉ câu đầu. Đầu dư chạm vân mây xoắn. Bẩy chạm khắc tứ linh xen lẫn vân mây xoắn, nét chạm ở đây sâu, tỉa tuốt, công mộc. Xà nách được đục gờ chỉ. Chỗ nghé bẩychạm quy và vân mây. Các con giường chồng lên nhau. Đề tài trang trí ở đây là các vân mây liên hoàn. Các vì kèo ở mái sau cũng được trang trí tương tự như vì kèo mái trước.

Đến hai vì kế tiếp hai bên là vì số 2 và vì số 5 có kết cấu tương đối giống hai vì giữa. Cũng được kết cấu theo kiểu chồng giường giá chiêng. Liên kết giữa các cột con và cột cái là các con giường, giữa các cột con và cột hiên là các kẻ bẩy. Các con giường chồng lên nhau và trang trí các đề tài như tứ quý, vân mây xoắn cùng các hoa lá khác.

Hai vì kèo hồi là số 1 và vì số 6 cũng tương tự như vậy. Phần từ quá giang trở xuống đến cột tương tự như các giường đã nói trên. Phần từ quá giang trở lên đến giường, giá chiêng và hai hồi chóp (phần chóp) đều được trang trí 2 mặt hổ phù oe mặt trời. Đường nét chạm chỗ ở đây công phu, cầu kỳ. Phía dưới có chạm đôi rồng chầu theo kiểu cách điệu.

Từ quá giang trở xuống, cột cái ra cột con và từ cột con bắt quyết ra cột hiên. Hai chái có bẩy tạo nên liên kết liên hoàn chặt chẽ.

Đặc biệt toàn bộ xà hoành được bào nhẵn. Thượng lương có chữ nho ghi lại quá trình dựng đình sau khi chuyển từ ven bờ sông vào làng là : “Duy Tân ngũ niên thập nhất nguyệt tuế thứ Tân Hợi nhị thập bát nhật thụ trụ thống” (Duy Tân năm thứ 5 Tân Hợi, tháng 11 ngày 28).

Khải Định tuế thứ nhị niên tại Đinh Tỵ thập nhị nguyệt nhị thập nhật thượng lương (Khải Định năm thứ 2 tức Đinh Tỵ tháng 12 ngày 20).

Xà thượng của gian giữa được chạm trổ cầu kỳ đôi rồng chầu. Đường nét uốn lượn, mềm mại, xen lẫn các vân mây xoắn. Xà Trung cũng được trang trí giống xà thượng.

Mái đình ban đầu được lợp bằng ngói mũi hài. Sau này do sự hủy hoại của thiên nhiên và những biến cố lịch sử qua thời gian. Cho đến nay mái đình được lợp bằng ngói giợp xen lẫn ngói mũi hài. Tiền đình đặt ba ban thờ, ban giữa thờ Hội đồng, hai bên thờ các quan.

Hậu đình ban đầu gồm ba gian, sau này khi chuyển vào làng Hương Nhượng thì hậu đình được thu hẹp lại còn hai gian. Mỗi gian có chiều dài 4,1m và chiều rộng là 3,5m. Các vì kèo được làm đơn giản. Đây cũng là nơi thờ Phúc Thần Thành Hoàng Làng Thái phó Từ Quốc Công Lê Khả Lãng. Bên trong hậu đình ở phía trên còn có bức đại tự ghi “Thánh cung vạn tuế” (Đức thánh muôn năm). Một bộ long ngai cao 90cm, rộng 70cm, bộ chân nến gỗ cao 30cm, đường kính đáy rộng 15cm, 3 bộ ống cắm hương gỗ cao 27cm, rộng 12cm một bộ đài đựng nước và rượu, một lục bình gốm cao 26cm, rộng 15cm.          Ngoài ra ở đây còn có các câu đối :

            “Phong vũ lôi đình chỉ xích thiên

            Y quan lễ nhạc thanh danh địa”

  Dịch nghĩa :

            “Mưa, gió, sấm, chớp một thước đến trời

        Lễ nhạc, áo mũ quan lại một vùng nổi tiếng”

Hiện nay, ở Từ đường thôn Trung Hoà, xã Gia Vân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình còn lưu giữ một số sắc chỉ thời Lê Trung Hưng.

Một tờ đề ngày 18/5 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (1763) nội dung sắc chỉ có ghi : “Con cháu Khai Quốc Công Thần Từ Quốc Công Lê Khả Lãng từ làng Dao Xá, hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên rời đến quê ngoại là huyện Gia Viễn. “Từ Quốc Công có nhiều công lao mở nước được ban: Thiết Khoán Đan thư. Con cháu cả họ đều được miễn việc binh, việc họ, thuế tiền, thuế gạo, cùng các việc xây dựng như đắp đê, đắp đường”. Một đạo ghi ngày 8/8 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1768).

Một đạo phong ngày 26/7 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1784) phong thêu mỹ tự cho phúc thần Lê Khả Công, thượng đẳng thần Khương Quốc, tán trị hùng dũng đại vương. Sắc phong có câu tán

"Thiên dã hùng tài thế tư dũng lực.

Tòng nhung tán bạch mao hoàng Việt tế vu

Gian kỳ công chiến khoáng đan thủ đồng mưu vị thế... "

  Tạm dịch như sau :       

  “Trời cho tài lớn đời cây thế tùng

  Theo việc quân cầm cờ mao trắng, bùa vàng xông pha bao trải gian nan”

  Xét công lao ghi trong khoán sắc đồng cùng nước cùng vui lời thề thốt...

  Tiếp theo là :

“Hoạn nạn ngự tại lưu dân lạc ư xuân thọ

Diên hy tích hổ điệu quốc thế ư thải bàn”

Tạm dịch như sau :

“Chống hoạn nạn, ngăn mọi tai ương, đưa dân vui chơi đài xuân cải thọ.

Cho tốt lành cho phúc dài lâu, vững thế nước, thủ vui thái non bàn”.

Tóm lại đình Hương Nhượng là di tích lịch sử văn hoá, công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ cuối thế kỷ XIX còn lưu giữ lại tương đối nguyên vẹn về các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần.

Những trang trí kiến trúc ở đình nó thể hiện bàn tay lao động, sáng tạo khéo léo của các nghệ nhân lúc bấy giờ. Đây là một sản phẩm văn hoá của dân tộc Việt từ xưa. Nó còn là di tích lưu niệm danh nhân, nơi lưu giữ những giá trị lịch sử về quá trình xây dựng làng xã ở nước ta. Thông qua đó nó cũng phản ánh rất rõ tiếng nói của người đương thời đó là ước vọng bình yên trong xã hội.

Đình làng Hương Nhượng còn là trung tâm sinh hoạt và giao lưu văn hoá làng xã, là nơi hội họp và diễn ra các hoạt động văn hoá truyền thống. Nó còn là công trình kiến trúc nghệ thuật gắn với một vùng đất cổ địa linh nhân kiệt.

Đây là một di sản văn hoá vô giá, bởi nó là bằng chứng thiết thực nhất lưu giữ lại những nét đẹp và những thành tựu văn hoá truyền thống, trên một mảnh đất linh thiêng đã sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước nói chung và xứ Thanh nói riêng.

Chính vì vậy mà việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá vật chất, tinh thần của đình là một việc có tầm quan trọng và cấp thiết. Để lưu giữ lại những nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc ta nói chung và ở địa phương nơi đây nói riêng. Nhằm tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân thế hệ sau này. Để nó xứng đáng hơn với mảnh đất xứ Thanh anh hùng, với truyền thống hào hùng của nhân dân Thanh Hoá. Nơi quê hương của hai vị vua khai sáng cho hai triều đại phong kiến ở nước ta. Trong đó triều Hậu Lê kéo dài nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt Nam.

“Người nào tình nguyện theo học, đầu xuân đem trầu cau trình với dân, được trừ tạp dịch để trọng nho phong” 4.

Về tôn giáo, hầu như làng nào cũng lập chùa thờ phật, có những ngôi chùa nổi tiếng như: chùa Hương, chùa Bún, chùa Hón... song không thấy xuất hiện những nhà sư đạo học cao vời, những cơ sở từng là trung tâm truyền bá giáo lý như ở các huyện Đông Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc,... Dường như quan niệm “thứ nhất tu tại gia”... vẫn phổ biến, cho nên Phật giáo ở Thọ Hải gắn bó với thế tục hơn tìm đường thoát tục. Đạo Mẫu không có điều kiện phổ cập, mặc dù Liễu Hạnh công chúa

Bia ghi: Từ chỉ dựng giữa vùng sông Lương, Lũng Thuần, Ngọc Khuê, thuộc 7 xã có 14 thôn, từ năm Đinh Tỵ, Chính Hoà triều Lê đã có Đỗ Viết Hồ người Xuân Phố đậu Tiến sỹ, đậu hương tiến hơn ba chục vị, chi phí hết hơn 400 quan tiền, do Đức Hợp, tú tài, học trò và dân Bái Trạch cung tiến.

Bia khai quốc công thần Lê Văn Linh

Tổ tiên trước của Lê Văn Linh làm quan tới Nhập Nội đại hành khiển(,) Dhong Huyện Thượng hầu, mất ngày 14 tháng 6 năm 1389 năm Quang Thái thứ 2 dời Trần; đến ông Trần Phong cũng làm quan cuối triều Trần. Khi Hồ Quý Ly chuyên quyền, ồng liền trở về bản hương đi đó đây chơi thăm sông

3.Những người con ưu tú của Thọ Hải

Lê Văn Linh: xuất thân từ một gia đình quý tộc, nhiều đời khoa bảng. Tằng tổ[3] của Lê Văn Linh quê ở xã Bảo Đà, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, xứ Thanh Hoa, làm quan dưới triều Trần, giữ tới chức Binh Bộ thượng thư. Đến triều Lê được truy phong Kiềm Quốc Công. Ông nội húy là Hiêu, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Dần (1338) niên hiệu Khải Hựu thứ 10, đời vua Trần Hiển Tông nhưng cụ không làm quan mà nhàn du sơn thuỷ. Một hôm, cụ Hiêu đi đến làng Hải Lịch[4] thấy một hình đất lạ, cụ đi đi lại lại xem xét tỉ mỉ và tìm được chính huyệt của ngôi đất ấy, bèn phân kim lập hướng và di chúc lại cho con cháu là lấy ngôi đất ấy làm mộ địa cho cụ khi trăm tuổi. Năm sau, ngày 14 tháng 4, cụ Hiêu mất[5], con trai cụ là Phong đã mai táng cụ ở nơi đất ấy. Đến đời Lê Nhân Tông cụ Hiêu được truy tặng Huyện Thượng Hầu, tước Quận Công.

Cha đẻ của Lê Văn Linh tên là cụ Trần Phong, đỗ tiến sĩ hội nguyên khoa năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Trị thứ nhất (1358) đời vua Trần Dụ Tông[6]. Cụ Phong mất ngày 10 tháng 4 (gia phả không ghi năm sinh, năm mất), an táng tại xứ đồng nhà. Đến đời vua Lê Nhân Tông được truy phong là Lương Quận Công. Cụ Phong sinh được một người con trai đặt tên là Lê Văn Linh.

Lê Văn Linh sinh năm Đinh Tỵ, niên hiệu Xương Phù thứ nhất (1377), đời vua Trần Phế Đế. Ông là người nổi tiếng thông minh, đĩnh đạc, học rộng, hiểu sâu, tính tình hòa nhã, nét đất khôn thường, tính trời đĩnh ngộ, văn như rồng ngâm, hổ rống, lời nói như phượng hót chim ca. Lại là nhà nho thông cả kinh sử, thiên văn, địa lý, giỏi về y học, nhâm, cầm, độn, toán. Lê  Văn Linh từ nhỏ đã có tiếng văn học.

Lớn lên, gặp buổi nhà Trần suy vong rồi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, nhân đó nhà Minh lại sang xâm chiếm nước ta với cớ phù Trần diệt Hồ. Do thời thế nhiễu nhương nên Lê Văn Linh không đi thi mà ở nhà mở trường dạy học. Tương truyền, lúc bấy giờ làng Hải Lịch thường bị hổ từ trong rừng ra hại người và bắt súc vật, Lê Văn Linh đã làm một bài văn đuổi hổ. Từ đó hổ lãng xa, không dám về làng hại người và súc vật nữa.

Năm lên 16 tuổi, cụ Lê Phong gọi Lê Văn Linh đến bảo: “Nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly chiếm ngôi vua làm loạn nước nhà, nhân dân đã phải sống khổ cực lầm than nhiều năm. Vậy nên nhà Minh đã sang xâm lược nước ta, gây nên nạn binh đao, trước tình cảnh ấy ai cũng phải đau lòng. Cha hận cho tuổi già, sức yếu, không thể vì nước xông pha diệt giặc. Nay con sinh ra trong buổi loạn lạc, chớ vì yếu đuối mà thoái chí Thanh Vân. Há chẳng thấy Chương Lương, Trần Bình xưa giúp nhà Hán mà tên tuổi đã ghi vào sử sách sao? Huống chi, ban đêm ta xem thiên tướng, thấy Đế Tinh chiếu ở đỉnh núi Lam Sơn, ý rằng Lam Sơn động chủ hẳn là thánh nhân, con hãy đi theo ngài”.

Ngày mồng 3 tháng Giêng năm Quý Mùi (1403), Lê Văn Linh tìm đến Lam Sơn gặp động chủ. Biết Lê Lợi là một người anh hùng, có tài lại mưu lược, ông cho rằng Lê Lợi có thể làm một vị minh chúa, bèn theo dưới trướng và thường qua lại bàn luận thế sự.

Ngày 12 tháng 3 năm Bính Thân (1416), tại Mường Giao Lão, Lê Lợi đã cùng 18 người bạn đồng chí hướng chích huyết tế cáo trời đất, nguyện một lòng đánh giặc cứu nước. Lê Văn Linh là người đứng đầu trong số ba văn thần có mặt trong hội thề và là người đứng thứ 4 trong số 19 người tham dự hội thề sau Lê Lợi, Lê Lai và Nguyễn Thận1.

Bấy giờ ở làng Hào Lương có tên Đỗ Phú, vì có thù riêng với Lê Lợi nên đã mật báo với giặc Minh việc Lê Lợi cùng một số người tập hợp nghĩa sĩ chống lại giặc Minh. Do đó nghĩa quân nhiều lần đã bị giặc Minh bức bách. Lại có tên Lương Nhữ Hốt người huyện Cổ Đằng, làm tham chính nguỵ quân cũng mật báo với giặc Minh rằng: “Chúa Lam Sơn chiêu nạp những kẻ lưu vong làm phản, lại chiêu hiền đãi sĩ rất hậu, chí của người ấy tất không nhỏ. Không sớm trừ khử đi để tránh hậu hoạ, nếu để con cá gặp mưa thì khi ấy sẽ không còn là con cá trong ao nữa.” Giặc Minh tin lời Nhữ Hốt nên càng bức bách nghĩa quân. Trước tình hình đó, Lê Lợi bèn hội các tướng sĩ lại bàn và định ngày khởi binh.

Ngày mồng 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), tại núi rừng Lam Sơn, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định Vương. Lê Văn Linh cùng Bùi Quốc Hưng và Nguyễn Tiến bấy giờ là 3 văn thần của nghĩa quân dưới trướng của Lê Lợi, vạch ra sách lược giúp Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh và được Lê Lợi uỷ thác tất cả các việc quân cơ nội vụ.

Tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), khi Lê Lợi tiến đại quân ra Bắc đánh thành Đông Đô đã cử Lê Văn Linh cùng các tướng Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Lãnh, Bùi Quốc Hưng ở lại vây hãm thành Nghệ An. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1427), quân Minh ở hai thành Nghệ An và Diễn Châu đầu hàng. Khi Lê Lợi vây thành Đông Đô, Lê Văn Linh đã dâng mật kế hãm thành khiến quân Minh phải đầu hàng.

Mùa xuân năm Mậu Thân (1428), sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, Lê Lợi lên ngôi hòa đế, lấy niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ nhất, khi xét công ban thưởng cho các công thần, binh sĩ. Lê Văn Linh được vinh phong là Bình Ngô khai quốc, Hiệp mưu bảo chính đại công thần, Nhập nội kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự thiếu bảo, tước Khánh An hầu. Ông là người đứng hàng thứ 8 trong số 35 vị Bình Ngô khai quốc đệ nhất công thần1, được Lê Lợi tự tay ngự danh và cất trong dương vàng.

Ngày 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 (1429), Lê Thái Tổ ban biển ngạch công thần khai quốc cho 93 người. Lê Văn Linh đứng hàng thứ 6 với tước Hương thượng hầu. Cùng năm đó, nhà vua cho đúc quốc ấn, sai Lê Văn Linh về tấu cáo Thái miếu ở Lam Kinh.

Đến tháng 11 năm Ất Mão niên hiệu Thiệu Bình thứ 2 (1435), Hữu Bật Lê Văn Linh làm Tham đốc cùng tổng quản Lê Bôi, đốc xuất năm đạo quân và hai vạn binh lính ở Nghệ An đi đánh tên phản nghịch Cầm Quý ở Châu Ngọc Ma và bắt sống được Cầm Quý đóng cũi đưa về kinh thành xử tội.

Tháng 6 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiệu Bình năm thứ 4 (1437), Tư đồ Lê Sát bị buộc tội lộng quyền, giết hại công thần. Thái phó Lê Văn Linh cùng Lê Ngân, Lê Văn An ra sức cứu gỡ cho Lê Sát nhưng Thái Tông không nghe. Vì tính tình ngay thẳng, không a dua nên Lê Văn Linh đã bị buộc tội và bị tước bỏ biển công thần, giáng xuống làm hữu Bộc xạ. Đến tháng 8 năm ấy, Lê Văn Linh được thăng chức Tri từ trọng sự rồi phục chức Thái phó như cũ.

Tháng 3 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), triều đình mở khoa thi hội lấy tiến sĩ, Lê Văn Linh được bổ chức Đề hiệu1.

Đến tháng 4 năm đó, Thái Tông đi tuần thú phía Đông, không may bị bạo bệnh băng hà ở vườn vải huyện Gia Định. Ngày 12 tháng 8, Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng Đinh Liệt, Lê Bôi tôn Thái tử Bang Cơ lên ngôi, bấy giờ vua mới hai tuổi. Lê Văn Linh phụng mệnh vua hộ vệ linh cửu Lê Thái Tông về táng ở Lam Sơn2, sau đó ông được gia phong là Bình Ngô khai quốc khởi nghĩa...Vua Lê Nhân Tông suy tưởng đến công lao của Lê Văn Linh nên đã truy phong cả bốn đời đều là tước công, tước hầu. Gia phong tằng tổ, nguyên Binh bộ Thượng Thư triều Trần là Kiềm quốc công, hiển tổ3 được ấm phong là quận công, huyện thượng hầu. Cha Lê Văn Linh được ấm phong là Lương quận công.

Sau chuyến ngự giá về bái yết Thái miếu ở Lam Kinh vào tháng 3 năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà thứ 6 (1448), để ghi nhớ đến công lao của Khai quốc công thần Lê Văn Linh, vua Lê Nhân Tông đã tiến phong cho ông chức Nhập nội Thái sư, tham dự triều chính, kiêm tri hải tứ đạo. Lúc này Lê Văn Linh đã 72 tuổi.

Ngày 7 tháng 4 năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông, Lê Văn Linh mất. An táng tại xứ đồng Cồn Vị xã nhà, được truy tặng là Khai phủ, lại ban tên thụy là Trung Hiếu. Vợ ông thụy là Ngọc Tuy quận phu nhân, được gia phong là Đại phu nhân.

 Có hiệu là Mai Trai, người làng Hải Lịch, huyện Lôi Dương, nay là thôn Đông Phương Hồng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Xuất thân là một thầy giáo nông thôn, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu, có tên trong 18 người dự hội thề Lũng Nhai. Ông cùng với Nguyễn Trãi, là mưu thần của Lê Lợi, có công trong sự nghiệp giải phóng đất nước, được phong tước Khánh Thượng hầu, giữ chức Nhập nội Thiếu phó. Ông có tham gia chiến dịch, cùng Lê Bôi đi đánh Cầm Quí ở châu Ngọc Ma (1435) được toàn thắng.

  Lê Văn Linh là người cứng cỏi, thẳng thắn làm quan ba đời vua Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông. Khi Lê Sát bị giết, chỉ có ông dám can ngăn, mặc dầu vì thế mà bị giáng chức. Sau này, ý kiến của ông là đúng.

  Lê Văn Linh không lưu lại tác phẩm nào. Nhưng sử sách có ghi rằng hồi ở quê làng, ông thấy cọp thường về quấy phá, nên đã làm bài Văn trách hổ, làm cho hổ bỏ đi. Câu chuyện tương tự như Hàn Dũ ở Trung Quốc và Hàn Thuyên ở nước ta làm văn đuổi cá sấu. Do tình cờ, hay do nguyên nhân nào đấy mà đuổi được hổ và ông đã trở nên nổi tiếng.

  Gia đình Lê Văn Linh có truyền thống văn học và tham gia chính sự. Các con ông: Lê Hoằng Dục là một nhà thơ, là bạn xướng họa với Lê Thánh Tông, có đi sứ Trung Quốc. Lê Cảnh Huy và Lê Năng Nhượng đều làm quan đến Quốc công.

  Nhân dân địa phương vẫn truyền tụng về Lê Văn Linh với tư cách là một thầy giáo. Đa số thanh niên được ông dạy dỗ đã trở thành tướng tài hoặc binh sĩ trong trại Lam Sơn. Vào Như Áng với Lê Lợi, ông cũng được giao việc dạy dỗ con cháu các gia đình nghĩa sĩ. Khi nhà Lê mở nước, tổ chức khoa thi, ông được cử làm Đề điệu (chủ khảo) cùng chấm với Nguyễn Trãi, lấy Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên (1442). Văn bia viết về ông còn cho biết Nguyễn Trực, Lương Thế Vinh (?) đều là học trò của ông.

 Trải 3 đời vua từ Thái tổ cao hoàng đế Lê Lợi , Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông, Lê Văn Linh luôn luôn tận trung một lòng thờ chúa. Cuộc đời làm quan của ông khi thăng, khi trầm bởi đức tính ngay thẳng, không a dua, xu nịnh mà cam chịu khiển trách.

Lê Văn Linh là vị công thần khai quốc, vị nguyên lão làm quan trải ba đời vua. Là người tính thâm trầm, chí lược, khí tiết, am hiểu chính sự, thường có những lời bàn sáng suốt, khi tham dự triều chính. Suy xét mọi việc thấu tình đạt lý trước khi đưa ra phán quyết.

Khi Thái Tổ ngự danh ban thưởng cho các công thần khai quốc Lê Văn Linh được phong là Khánh An hầu, do mưu điệp văn quốc sự. Lê Văn Linh có 3 người con trai thì cả 3 đều làm quan. Người con trưởng là Lê Doãn Túc, giữ chức Thừa tuyên sứ  ở đạo Kinh Bắc.

Thứ là Lê Cảnh Huy. Năm Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), được thăng chức Nhập nội Tả đô đốc kiêm thái tử thiếu bảo, giữ chức Hộ bộ Thượng thư, được phong Phụ tán công thần, gia phong Thái phó Kiềm quận công.

Con trai thứ 3 là Lê Hoàng Dục, một người học rộng lại uyên thâm, hay thơ phú, chơi thân với vua Lê Thánh Tông từ khi Vua còn làm Bình Gia vương. Khi Thánh Tông lên ngôi, Vua đặc ban cho ông là Tiến sĩ cập đệ, được thăng chức Binh bộ Thượng thư Nhập nội Tả bộc xạ kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Lâm Giang bá. Sau vinh thăng Lại bộ Thượng thư kiêm lực bộ Nhập nội Tả bộc xạ Tham tri chính sự, Thái bảo, tước Trung quận công. Lê Hoàng Dục từng  được đi sứ Trung Hoa, thiết lập đồng trụ giảng hoà vói Bắc triều, phân chia ranh giới Nam - Bắc, bảo vệ quốc thể. Sau lần đi sứ về ông được thăng chức Vinh phụ quốc, tán trị, Thôi trung hiệp lực, Đồng đức đề mưu công thần, Lễ bộ Thượng thư kiêm trưởng lực bộ sự Bình Ngô đại tướng quân, Thái bảo, tước Cường quận công.

Sau này hậu duệ dòng tộc Lê Văn Linh có nhiều người làm quan ở hai triều Lê, Nguyễn và đã đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài, trí lực.

Năm Kỷ Dậu (1489), niên hiệu Hồng Đức thứ 20, Lê Văn Linh được vua Lê Thánh Tông gia phong là Thượng đẳng phúc thần, Minh nghi quảng bác, Kinh văn vĩ võ, Mậu đức phong công, Hồng lược anh linh, Tế thế an dân, Bảo chính đại vương, ban thụy là Trung Hiếu.

Trong phần nhân vật chí của sách Đại Nam Nhất thống Chí, Sử thần Phan Huy Chú đã liệt Lê Văn Linh vào một trong số tám người phò tá có công lao tài đức thời Lê . Phan Huy Chú nói về ông như sau: “… Lúc nhỏ đã có tiếng văn học. Nghe Thái Tổ còn thời kỳ bí mật ở núi Lam Sơn, ông hăng hái về theo. Năm Mậu Tuất (1418), vua dấy binh, ông cùng Nguyễn Trãi ở luôn bên cạnh, bàn mưu thần trong màn tướng, tính toán vận trù quyết thắng thường tỏ công lao. Khi vua vây thành Đông Đô, ông bày mưu kín lấy thành, người Minh kế đã cùng phải xin hàng. Rồi Vương Thông về nước, trong nước hoàn toàn yên định… Ông là người rất cứng cỏi, thẳng thắn, có khí tiết. Ở ấp ông, thường có hổ bất thần xuất hiện hại người, ông làm bài văn trách hổ, hổ đều tránh xa. Bấy giờ người ta ví ông như Hán Dũ…”1. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng nói về ông như sau: “...Văn Linh là công thần khai quốc có khí tiết. Đến đời Gia Long, Lê Văn Linh được liệt vào hàng công thần khai quốc nhàbậc thứ nhất, miễn lao dịch cho một người cháu để giữ việc thờ tự”2.

Lê Đình Ngang: Theo sách Lam Sơn thực lục (Lê Văn Uông dịch, Nguyễn Diện Niên khảo chứng) cho biết: “Nếu căn cứ vào đoạn chép ở Trùng San Lam Sơn thực lục vào năm Quý Mão (1423) ” thì Lê Ngang là con của Lê Khả Lãng[7].

Theo Phả ký chi thứ họ Lê Đình ở thôn Công Thành - xã Thọ Hải cho biết: Lê Đình Ngang, thụy là Phúc Tín, là em của Tự Quốc Công, chú của Nghĩa Trinh Quốc công, con út của Kinh Xuyên hầu. Ông là người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được phong là Bình ngô khai quốc công thần. Khi đất nước giải phóng, Lê Đinh Ngang có những thời kỳ làm quan trong vương triều nhà Lê đã không làm tròn vai trò vị trí của mình nên cũng bị nhà vua phê phán.

Tuy nhiên, do công lao của Lê Đình Ngang trong cuộc kháng chiến chống Minh là to lớn đối với dân tộc và đất nước đương thời, vì vậy khi ông mất (ngày 23/9 năm Chính Trị thứ 6 đời Anh Tông (1563), nhà nước phong kiến vẫn phong sắc cho Lê Ngang làm phúc thần của làng Công Thành, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá: “Từ xưa thờ phụng Tuấn Mại cương trung dực bảo Trung hưng, Bình Ngô Khai quốc công thần, Đại truyền đôn quận công trung đẳng thần, Thần có công giúp nước, giúp dân, ngầm hiển ứng, từng được ban cấp sắc phong cho phép địa phương thờ phụng. Khi vua Khải Định thọ 40 tuổi đã thăng lên một bậc, tặng mỹ tự “ Trác vĩ thượng đắng thân ” cho phép địa phương thờ phụng để ghi vào điển lễ Quốc gia. (sắc được phong vào niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924)”

Bức thần vị ở nhà thờ họ Lê Đình cũng chép: Khai quốc công thần Thượng đẳng Đại vương Lê Ngang, khuông quốc, phù vận, tán trị, tế thử, khang dân, đốc bật tá tích kiêm văn thần vũ, dương hưu, hiển (?) vĩ tích phong công hùng tài đại lược tráng liệt, Tuấn mại Cương trung Dực bảo Trung Hưng.

Lê Liệt: Trong sách Đại Việt sử kỷ toàn thư viết về Lê Liệt cho biết: ông là người tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vào tháng 2 năm 1423: “vua muốn đánh thành Nghệ An... chấn chỉnh binh tượng, tiến quân bao vây thành Nghệ An, quân sắp đi, vừa lúc có tin báo quân Minh đã sắp đặt voi, ngựa, thuyền bè, tiến quân cả hai đường thủy, bộ, định ngày mai sẽ tới. Vua chia hơn 1.000 quân, cho bọn Lê Liệt đi đường đóng giữ huyện Đỗ Gia (nay là đất huyện Hương Sơn - tỉnh Hà Tĩnh). Vua đưa thêm chỉ huy đại quân giữ chỗ hiểm yếu để đợi chúng. Trong trận đánh này “quân giặc bị chém đầu và chết tới hàng vạn tên”.

Ngày 18 năm Đinh Mùi (1427): Vua sai Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Lê Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 5 thớt voi bí mật mai phục trước ải Chi Lăng để đợi giặc[8].

Ngày 3 tháng 5 năm Mậu Thiên thứ 2 (1429), Lê Liệt được vua ban biển nghịch công thần cho 93 viên, Lê Liệt được xếp ở hàng Đình Thượng Hầu với 14 người khác[9].

Sau cuộc kháng chiến chống Minh, Lê Liệt còn tham gia xây dựng và củng cố nhà nước Đại Việt, nhưng tháng 12 năm Canh Thìn (Quang Thuận năm thứ nhất - 1460), sai Thái phó Lê Liệt, Thái phó Lê Lựu, Thái bảo Lê Lãng dẫn các quân chia đường đi đường để đánh họ cầm (tức họ Lư cầm, tù trưởng Bồn Man)[10]

Ở bức Thần vị được lưu giữ tại Nhà thờ họ Lê Đình thì Lê Liệt được ghi như sau: "khai Quốc công thần Thượng đẳng thần Đại Vương Lê Liệt, cao huân hồng liệt bác đạt minh mẫn, đoàn trạch lượng công tuyên hiến, Hoằng Hoá, Đốc khảnh tuy lộc, hiển ứng trạc lỉnh, phong công tuấn liệt tập phúc nghênh tường, địch khang tuấn mại, cương trung dực bảo Trung Hưng".

Lê Dũng Liêm: Theo các cụ trong dòng họ Lê Đình cho biết: Lê Dũng Liêm là phúc thần của làng được thờ tại đình làng, sau khi đình bị phá dỡ dòng họ Lê Đình đã đem sắc phong và bát hương về thờ tại nhà thờ.

Lê Dũng Liêm làm quan dưới triều Hậu Lê, ông được phong chức Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân ở phủ Trấn Ninh, tước kinh xuyên hầu. Khi mất ông được phong làm phúc thần của làng, sắc cho thôn Công Thành, phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá. Từ xưa thờ phụng Lê triều Đặc tiến phụ quốc phấn lực tướng quân, Trấn Ninh phủ, Kinh lược đại sử, Kinh xuyên hầu Lê Dũng Liêm phủ quân tôn thần.

Thần có công giúp nước yên dân, ngầm hiển linh ứng. Nay chính lúc Trẫm mừng thọ tuổi 40 nên làm lễ lớn ban ơn, thăng lên một bậc, phong cho thần mỹ tự: Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần. Cho phép địa phương phụng thờ thần như cũ để thần bảo vệ cho nhân dân của ta. Kính vâng lấy lời. Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9(1924).

Lê Hoằng Đạt: là phúc thần của làng trước đây được thờ tại đình làng, sau khi đình bị phá dỡ con cháu dòng họ Lê Đình đã đem sắc phong, bát hương về thờ tại nhà thờ. Ông làm quan dưới vương triều Hậu Lê, ông được phong chức Đặc tiến phụ quốc tướng quân, Tổng tri, Tư ân, tước An Xuyên Bá, khi mất được triều đình phong kiên phong làm phúc thần.

Sắc cho thôn Công Thành, phủ Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá. Từ xưa thờ phụng Lê triều Đặc tiến Phụ quốc tướng quân Anh Đức Vệ, Tổng tri Tư Ẩn, An Xuyên Lê Hoằng Đạt phủ quân. Thần có công giúp nước yên dân, ngầm hiển linh ứng. Nay chính lúc Trẫm mừmg thọ tuổi 40 nên làm lễ lớn ban ơn, thăng lên một bậc, phong cho thần mỹ tự: Huy Vĩnh Bảo trung hưng linh phù thần. Cho phép địa phương phụng thờ thần như cũ để thần bảo vệ cho nhân dân của ta. Kính vâng lấy lời. Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9(1924).

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG II

THỌ HẢI ĐẦU THẾ KỶ XX  ĐẾN NĂM 1945

I.       CHÍNH SÁCH CAI TRỊ CỦA THỰC DÂN PHÁP

1.      Phong trào cách mạng của Thọ Hải đầu thế kỷ XX

Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương bị thất bại, thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thực hiện chính sách cai trị dã man. Chúng thực hiện chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ (Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ), đặt mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau. Tỉnh Thanh Hóa thuộc Trung kỳ, nằm dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn trực tiếp cai trị.

V quản lý hành chính, bên cạnh tòa Công sứ (cơ quan bảo hộ của thực dân Pháp ở tỉnh) là bộ máy cai trị của Nam triều gồm có Tổng đốc, Án sát, Bố chính, Lãnh binh. Bên dưới là Phủ, Huyện, Châu, do các Tri phủ, Tri huyện, Tri châu người Việt đứng đầu, cùng một số Nha lại, đội lính quản lý các mặt hành chính, pháp lý, an ninh xã hội. Chính quyền cơ sở gồm tổng, làng, xã do Cai tổng, Phó tổng, Lý trưởng, Phó lý đứng đầu, có các Hương chức và Trương tuần giúp việc, về danh nghĩa, bộ máy cai trị của chính quyền thực dân phong kiến ở Thanh Hóa mang tính lưỡng hệ, nhưng thực chất mọi quyền hành đều tập trung vào tay thực dân Pháp, mà đại diện là tòa Công sứ còn chính quyền phong kiến Nam triều được thực dân Pháp duy trì để làm tay sai và để lừa bịp nhân dân.

Vì vậy, đời sống, của nhân dân, trong tỉnh chịu cảnh đè nén áp bức bóc lột gấp đôi, một bên là chính quyền thực dân Pháp, một bên là chính quyền phong kiến Việt Nam.

Cùng với sự đoạt quyền tự do dân chủ, chính quyền thực dân phong kiến còn thẳng tay đàn áp đẫm máu các cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Chúng sử dụng bạo lực chính trị và quân sự chia rẽ tôn giáo, dân tộc, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc của nội bộ nhân dân để dễ bề cai trị.

Ngay từ khi đặt chân lên đất nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, tước đoạt tiền của bằng thuế khóa, phu phen tạp dịch... biến nền kinh tế Việt Nam thành nền kinh tế phụ thuộc chính quốc (nước Pháp). Đối với tỉnh Thanh Hóa, một tỉnh đất rộng người đông, giàu tài nguyên thiên nhiên, thực dân Pháp vơ vét những gì có thể vơ vét được với tốc độ, quy mô ngày càng tăng.

Từ khi đặt chân lên đất nước ta, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân ta, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trong cả nước. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, các sỹ phu yêu nước ở Thanh Hóa đã nổi lên chống thực dân Pháp. Nga Sơn có cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt; Vĩnh Lộc có cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân, Bá Thước có cuộc khởi nghĩa của Hà Văn Mao; Thường Xuân có cuộc khởi nghĩa của Cầm Bá Thước...

Là một vùng quê có bề dày về lịch sử và văn hóa. Thọ Hải có: làng Hương, làng Bún[11], làng Hóa (Hón), làng Rạch, làng Công Thành, làng Mậu Công nay gọi là làng Hải Mậu) có nhiều sỹ phu tham gia Cần Vương chống Pháp.

Ngày 01 tháng 8 năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, đây là cuộc chiến tranh của các nước đế quốc nhằm tranh giành thuộc địa và phân chia lại thị trường thế giới. Toàn quyền Đông Dương lập tức tuyên bố: “Nhiệm vụ của Đông Dương là phải cung cấp cho chính quốc (nước Pháp) đến mức tối đa nhân lực, vật lực, đồng thời phải duy trì an ninh trật tự ở thuộc địa...”

Năm 1918, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc; tuy là nước thắng trận nhưng nền kinh tế nước Pháp bị tàn phá nặng nề, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, giao thông vận tải bị đình đốn, giảm sút nghiêm trọng. Đến đầu năm 1920, số nợ quốc gia của Pháp đã lên 300 tỷ phơ-răng, cho Sa Hoàng (Nga) vay 14 tỷ phơ-răng bị mất trắng, phần lớn số vàng dự trữ ở Pari không cánh mà bay sang NewYork (Mỹ) và Luân Đôn (Anh).

Để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi khục và củng cố địa vị của mình trong thế giới tư bản chủ nghĩa, các tập đoàn tư bản tài chính Pháp một mặt tăng cường bóc lột quần chúng lao động ở Chính Pháp, mặt khác đẩy mạnh đầu tư khai thác các xứ thuộc địa, trong đó có Đông Dương (Việt Nam - Lào - Căm Pu Chia), khu vực này được Pháp xem là thuộc địa “quan trọng nhất, phát triển nhất và giàu có nhất” trong tất cả các xứ thuộc địa của Pháp trên thế giới. Tính đến năm 1929, Pháp đã đầu tư vào nước ta 50 công ty nông nghiệp, 46 công ty công nghiệp, 19 công ty khai thác mỏ, 31 công ty thương nghiệp với số vốn đầu tư lên đến 4 tỷ phơ-răng1. Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm ruộng đất để làm đồn điền lên đến 1,2 triệu ha, bằng ¼ diện tích canh tác của nước ta thời bấy giờ.

Ở Thọ Xuân, Pháp mở nhiều đồn điền như Phúc Địa, Mã Hùm, Điền Trạch, Vạn Lại. Nguồn lao động phục vụ cho các đồn điền này chủ yếu ở Thanh Hóa và các tỉnh ngoài Bắc như: Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, nhân công được trả những đồng lương rẻ mạt. Nhiều người Thọ Hải đã đi làm phu ở các đồn điền, hầm mỏ, nhưng cuối cùng vẫn phải quay về quê hương, có người một đi không trở lại.

Đầu thế kỷ XX, xã Thọ Hải với số dân khoảng hơn 2.500 người, chủ yếu là nông nghiệp, một số ít làm nghề buôn bán nhỏ; diện tích canh tác 746 mẫu2, trong đó ruộng công điền đã chiếm 52 mẫu. Do diện tích ít nên phải xâm canh ở các làng khác như Hương Nhượng làm ruộng ở Diên Hào, Bàn Cáo, Tân Lâm, Quân Ngọc, làng Quần Lai - Quần Đội làm thêm ruộng ở các làng Phấn Thôn, Hương Nhượng, Hội Thôn, Tuy Lai. Làng Bún tuy người thưa đất rộng nhưng lại bị địa chủ chiếm đoạt gần 50% diện tích (ruộng của án sát ....50 mẫu, địa chủ trong làng và các làng khác xâm chiếm hơn 50 mẫu), số công điền nằm gọn trong tay cường hào lý dịch, nhân dân không được chia chút nào.

Về quản lý hành chính, cho đến đầu thế kỷ XX, các làng Hương, làng Bún, làng Hóa (Hón), làng Rạch, làng Phấn Thôn, làng Công Thành, làng Mậu Công nay gọi là làng Hải Mậu thuộc tổng Diên Hào, huyện Thọ Xuân. Đứng đầu mỗi làng là Lý Trưởng, giúp việc cho Lý Trưởng là Phó Lý và ngũ vị hương như Hương Kiểm, Hương Bạ, Hương Bản, Hương Mục và Hương Nông. Mỗi làng lại có 4 tổ chức gọi là 7 nóc làng: Nóc quan viên gồm những người là quan lại, viên chức, học hành đỗ đạt, người có quyền thế, giàu có, có phẩm hàm. Nóc Hương lão gồm những người cao tuổi trong làng. Nóc Viên binh gồm các võ quan binh lính đã thôi việc về làng. Nóc Chức dịch gồm Lý trưởng, phó lý và các chức dịch đang tại chức. Những người được vào 4 nóc làng này gia đình phải khá giả giàu có để khao vọng (vô vọng bất thành quan). Những người tuổi đã cao nhưng không có tiền khao vọng làng vẫn bị coi là bạch đinh. Sự khao vọng và các hủ tục lạc hậu cùng với sưu cao thuế nặng đã đẩy cuộc sông nhân dân ngày một bần cùng hóa. Thuế thân (sưu) con trai từ 18 tuổi trở lên phải đóng 2,3 đồng một năm (tương đương một tạ gạo thời bấy giờ). Vì vậy, mặc dù người dân Thọ Hải cần cù lao động, nhất là tầng lớp phụ nữ, đầu tắt mặt tối làm lụng nuôi chồng, nuôi con nhưng do nền sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, lại thường xuyên gặp thiên tai hạn hán bão lụt, sâu bệnh nên cơm không đủ no, áo không đủ ấm.

Cùng với sự bóc lột về thuế khóa, phu phen tạp dịch, chính quyền thực dân Pháp còn thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị. Cả Phủ Thọ Xuân chỉ có một trường Tiểu học dạy từ lớp 1 đến lớp 5. Ở Thọ Hải chỉ có con nhà khá giả mới được đến trường đi học. Trừ một số người biết chữ Nho (chữ Hán), còn lại đến 98% dân số trong xã mù chữ. Mãi đến năm 1922, cả tổng Diên Hào (9 làng) mới có một trường Tiểu học ở làng Quần Lai. ít lâu sau có thêm trường Tiểu học ở Quảng Thi ( Xuân Thiên) dạy tiếng Pháp. Đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật phát sinh cùng với tệ nạn xã hội rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện đà đây phần lớn nhân dân các làng Thọ Hải đến cơ cực, bần hàn. Nhiều người không có đất phải đi ở nhờ, sự phản biệt giữa người bản xứ và dân ngụ cư cũng quá khắt khe, nặng nề. Cả phủ Thọ Xuân không có một bệnh viện. Người dân ốm đau phải uống thuốc Bắc, thuốc Nam hoặc cầu cúng. Ở phố huyện và các thị tứ như phố Đầm, Bái Thượng, Tứ Trụ và các tụ điểm khác rượu cồn, tiệm thuốc phiện, sòng bạc nổi lên nhan nhản. Và cùng với nạn mê tín dị đoan, các hủ tục lạc hậu đâ đè nặng lên đôi vai người lao động. Thuần phong mỹ tục được thay thê bằng nền văn hóa suy đồi phản động, làm cho dân trí ngày càng ngu muội, sức khỏe bị suy thoái.

Mặc dù đời sống khó khăn nhưng các làng vẫn giữ được tục kết chạ giữa các làng nhằm đoàn kết các cộng đồng cư dân, giúp nhau khi khó khăn, lúc hoạn nạn, như làng Hương Nhượng kết chạ với làng Đon, làng Giá huyện Thường Xuân; làng Hải Mậu kết chạ với làng Tuy Lai (Xuân Hưng), Diên Hào (Thọ Lâm); làng Hón  kết chạ với làng Đầm (Xuân Thiên), làng Hồng Đô (huyện Thiệu Hóa)....Tuy nhiên, mâu thuẫn xã hội ngày một tăng, sự tranh chấp đất đai giữa các làng, tranh giành nhau chức Lý trưởng, Tiên chỉ trong làng...(1) mà người được lợi là tầng lớp hương lý, chức dịch, quan lại và tầng lớp chịu thiệt thòi là nông dân.

2.     Phong trào cách mạng ở Thọ Hải 1927 - 1930

Năm 1926, người Pháp hoàn thành hệ thống thủy nông sông đào Bái Thượng. Một số diện tích cấy lúa một vụ chuyển sang cấy hai vụ lúa một năm. Sông đào Bái Thượng cùng với sông Chu tạo thành hai tuyến giao thông đường thủy đi qua, và cùng với Tỉnh lộ 47 từ tỉnh lỵ Thanh Hóa lên Bái Thượng, Thường Xuân tạo cho Thọ Hải một lợi thế, tiềm năng để phát triển “nhất cận lộ, nhị cận giang". Tuy nhiên, với chính sách khai thác triệt để các nước thuộc địa bằng sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch nặng nề, cùng với các hủ tục lạc hậu như đình đám, ma chay, rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện... đã đẩy đời sống Nhân dân các làng Thọ Hải đến cùng cực.

Chính sách cai trị và bóc lột của thực dân Pháp đã làm cho xã hội phong kiến Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến dẫn đến sự phân hóa xã hội sâu sắc mâu thuẫn dân tộc và giai cấp ngày càng gay gắt, quyết liệt và đòi hỏi phải được giải quyết. Đó chính là nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng dân tộc, cách mạng xã hội Việt Nam nói chung, của phủ Thọ Xuân và các làng ở Thọ Hải nói riêng.

Phong trào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội và Tân Việt (1927-1929); phong trào cách mạng đã lan rộng khắp nơi, thời kỳ này hai tổ chức cách mạng là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Đảng. Như tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội2 ở Thọ Hải có đồng chí Lê Xuân Sinh ở thôn Phấn Công; đồng chí Đỗ Ngọc Thành ở thôn Mậu Công tham gia tổ chức Đảng Tân Việt. Ông cụ thân sinh ra đồng chí Lê Xuân Sinh là cụ Lê Văn Cửu[12], cũng là người đã tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp; vốn sẵn có truyền thống yêu nước, lại có tinh thần bất khuất, khi làm tuần trưởng, ông luôn chống lại bọn quan lại nên bị cách chức. Sau khi bị cách chức, đồng chí lại ra nhập hàng ngũ cách mạng. Đồng chí Đinh Chương Dương (ở Hậu Lộc), cụ Đỗ Ngọc Nhĩ (ở Hoằng Hóa) giới thiệu đồng chí Lê Xuân Sinh vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội; sau khi thành Hội viên của Hội, đồng chí đã tích cực hoạt động, tuyên truyền, vận động rất nhiều quần chúng theo ở xã đứng vào hàng ngũ cách mạng tiêu biểu như: Đồng chí Đỗ Ngọc Thành ở làng Mậu Công[13]; xuất thân từ một gia đình nông dân, là một nhà nho nghèo, làm hương sư dạy trường làng, là đội viên của Đảng Tân Việt.

Tuy hai đồng chí ở hai tổ chức khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là làm cách mạng để đánh đuổi thực dân Pháp giành tự do độc lập cho dân tộc. Vì vậy, hai đồng chí đã thường xuyên liên lạc với nhau, trao đổi kinh nghiệm vận động, tuyên truyền, giác ngộ cho quần chúng đi theo cách mạng. Vận động, quần chúng bài trừ mê tín dị đoan, chống tệ nạn xôi thịt; ở các thôn Mậu Công, Hải Khoát, Phấn Thôn, Công Thành đã có những cuộc chống xôi thịt, phản đối bọn hào lý bày trò cúng tế vọng sách ngôi thứ; có những cuộc Nhân dân, chống đối bọn hào lý ra mặt bằng kiện cáo bọn hào lý làm bậy. Qua các sự kiện Hội đã tuyên truyền, giác ngộ cho quần chúng, ảnh hưởng cách mạng đã lan rộng trong Nhân dân, nhiều quần chúng đã có cảm tình đối với cách mạng.

II. NHỮNG TỔ CHỨC CÁCH MẠNG ĐẦU TIÊN Ở Xà THỌ HẢI TỪ NĂM 1930 – 1938

1.Phong trào cách mạng ở Thọ Hải những năm 1930 - 1935

Thọ Xuân là một vùng quê có bề dày về lịch sử, văn hóa, có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm kiên cường bất khuất; vào những năm 1925 - 1926, nhiều thanh niên yêu nước ở phủ Thọ Xuân đã tìm đến đồng chí Lê Hữu Lập tham gia hội đọc sách báo, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, hình thành nên các tổ chức cách mạng trên quê hương yêu dấu của mình.

Người có công đầu tiên trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về với nhân dân huyện Thọ Xuân là đồng chí Nguyễn Mậu Sung, người làng Quần Kênh, tổng Kiên Thạch1 Đồng chí Nguyễn Mậu Sung tham gia hội đọc sách báo ở Thanh Hóa và được tổ chức cử về huyện Thọ Xuân để truyền bá tư tưởng cách mạng.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, đến cuối năm 1926, các tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Quần Kênh (Xuân Giang), Mỹ Lý (Bắc Lương), Thượng Vôi (Xuân Hòa) thuộc tông Kiên Thạch, phủ Thọ Xuân, làng Yên Trường, làng Yên Lược (tổng Quảng Yên, huyện Thiệu Hóa) đà được thành lập. Trong 2 năm 1927 - 1928, đồng chí Nguyễn Mậu Sung nhiều lần về các làng Thịnh Mỹ, Hải Trạch, Quần Đội, Quần Lai để tuyên truyền cách mạng.

Từ năm 1926, Thanh Hóa nói chung và phủ Thọ Xuân nói riêng có hai tổ chức cách mạng song song cùng hoạt động đó là Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và Tân Việt cách mạng Đảng (Đảng Tân Việt).

Cuối năm 1928, theo kiến nghị của lớp đảng viên trẻ, Hội nghị đại biểu các chi bộ Đảng Tân Việt trong tỉnh được triệu tập tại phố Lò Chum, thị xã Thanh Hóa. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành mới gồm 7 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Xuân Thúy - một đảng viên trẻ, người làng Phong Cốc, tồng Thử Cốc (nay thuộc xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân) được bầu làm Bí thư, tại Hội nghị đã quyết định hoạt động của Tân Việt theo đường lối chính trị của Thanh niên Cách mạng đồng Chí hội.

Cuối tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại số nhà 5D - Hàm Long (Hà Nội). Tháng 5-1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên (ở Hương Cảng - Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề nghị thành lập Đảng cộng sản, nhưng không được chấp nhận nên họ đã rút khỏi Hội nghị về nước và tiến hành vận động thành lập Đảng cộng sản. Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời:

Để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho đất nước; các tổ chức cách mạng yêu nước được thống nhất lại và thành lập một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã phát triển; để hưởng ứng phong trào, thành lập Đảng và cho phát triển các tổ chức quần chúng, tập hợp quần chúng lại thành tổ chức Nông hội đỏ để đấu tranh; ở Thọ Hải tại Phấn Thôn, Công Thành đã bí mật tổ chức một hội tương tế (lấy danh nghĩa là họ hiếu nghĩa). Tổ chức này có 12 người do đồng chí Lê Xuân Sinh tổ chức và phụ trách. Mục đích của hội hiếu nghĩa là: đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn như ốm đau, bài trừ tệ nạn ăn uống, hội này đã được thực hiện vài đám. Hưởng ứng, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, các cơ sở đảng ở các địa phương đã tổ chức những hình thức như: treo cờ búa liềm, ban đêm kéo cờ chiêu quân.

Cơ sở Đảng ở khu vực Xuân Hội, xã Thọ Hải còn yếu nên kéo đèn chiêu quân vào đêm ở đồng Cánh Phượng[14] do đồng chí Sinh và đồng chí Đỗ  Ngọc Thứ[15] phụ trách; qua hình thức này tinh thần cách mạng của quần chúng trong vùng cũng được thức tỉnh.

 Sự ra đời của “Đông Dương Cộng Sản Đảng”: Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cộng sản được thành lập ở các tỉnh Bắc Kỳ đã triệu tập một cuộc họp tại số nhà 312 Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, xuất bản báo Búa liềm và cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời của đảng bao gồm Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyễn Văn Tuân(Kim Tôn). Việc thành lập Đông Dương Cộng sản đảng đã ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng cả nước. Những thành viên tiên tiến trong Thanh niên, Tân Việt…đều hướng về xu hướng thành lập tổ chức cộng sản, một số gia nhập Đông Dương Cộng sản đảng, một số xúc tiến giải thể tổ chức cũ để thành lập đảng cộng sản.

Sự ra đời của “An Nam Cộng Sản Đảng”: Tháng 8-1929, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Trung Quốc và Nam kỳ cũng đã quyêt định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng tại phòng 1, lầu 2, nhà số 1 đường Nguyễn Trung Trực (thời Pháp thuộc - năm 1929 là đường Philippin), phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11-1929, ban chấp hành trung ương lâm thời của An Nam Cộng Sản Đảng đượcthành lập tại Sài Gòn do Châu Văn Liêm làm bí thư. Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng có Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách. An Nam cộng sản Đảng ra đời đã tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong công nhân, nông dân, phát động phong trào đấu tranh chống khủng bố, chống chiến tranh đế quốc, ủnghộ Liên Xô và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh ở Nam Kỳ. An Nam cộng sản Đảng là một trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của An Nam cộng sản Đảng có ý nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam.

Sự ra đời của “Đông Dương Cộng Sản Đảng”: Sự ra đời và ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam CộngSản Đảng đã tác động mạnh mẽ đối với những đảng viên theo chủ trương cách mạng vôsản trong Tân Việt Cách Mạng Đảng. Ngày 01-01-1929 các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng gồm Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Dức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn chưa có Ban chấp hành trung ương. Địa bàn hoạt động chủ yếu của “Đông Dương Cộng sản liên đoàn” là ở các tỉnh BắcTrung Kỳ.

Như vậy trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã xuất hiện 3 tổ chức Cộng Sản Đảng. Sự ra đời của 3 tổ chức này phản ánh xu thế thành lập Đảng là tất yếu của phong trào cách mạng Việt Nam. Các tổ chức này đã nhanh chóng gây dựng cơ sở ở nhiều địa phương và trực tiếp tổ chức lãnh đạo.

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.

 Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, các tổ chức chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau nhưng gặp nhau ở mục tiêu giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia của nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội, khẳng định vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng chủ xướng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã được thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế1.

Hot đng ca Vit Nam thanh niên cách mng đng chí hi và đng Tân Vit đang din ra sôi ni trên toàn huyn Th Xuân thì vào gia năm 1929, thc dân Pháp và chính quyn phong kiến tay sai tp trung khng b, đàn áp. Nhiêu cơ s ca Tân Vit b v. Nhiu cán b ch cht như Nguyn Xuân Thúy, Nguyn Văn H, Lê Huy Hoàng, Lê Trước, Lê Liên Vũ, Nguyn Duy Vn... b đch bt, b tù đày. các đa phương, bn lý dch tăng cường kim tra và thng tay đàn áp nông dân. Phong trào Tân Vit Th Hi tm thi lng xung.

Từ năm 1928, tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã hoạt động khá mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Để đáp ứng tình hình phát triển của tổ chức và phong trào cách mạng, tháng 6 năm 1929, các đồng chí trong tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Thọ Xuân đã tổ chức hội nghị thành lập phủ bộ. Đồng chí Nguyễn Mậu Sung được bầu làm Bí thư phủ bộ.

Ngoài việc tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân, lựa chọn kết nạp hội viên, do hoạt động tích cực của ban chấp hành phủ bộ, các chủ trương công tác của phủ bộ, tỉnh bộ đã thấm sâu, lan tỏa đến nhiều cơ sở, nhiều tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ra đời như ở Mậu Thôn (xã Tân Ninh), Phú Hào, Mỹ Hào (xã Thọ Phủ), Phú Liễn (Thọ Thế), nay thuộc huyện Triệu Sơn. Đây cũng là điều kiện để hai tồ chức Thanh niên và Tân Việt chuyển hóa và gia nhập Đảng Cộng sản.

Trước tình hình đó tháng 2 năm 1929, huyện bộ Tân Việt phủ Thọ Xuân do ông Lê Huy Hoàng làm Bí thư, phong trào mở rộng từ Vân Lộ (Thọ Nguyên), Vực Trung, Vực Thượng (Xuân Thành), Mỹ Thượng (Xuân Hòa), Bái Đô (Xuân Bái). Bên tả ngạn sông Chu lúc này thuộc phủ Thiệu Hóa, hoạt động của Tân Việt mở rộng ở các làng Xá Lê, Thuần Hậu, Ngọc Trung, Phong Cốc (Xuân Minh), Long Linh Nội, Long Linh Ngoại, Căng Hạ (Thọ Trường), Phúc Bồi (Thọ Lập), Canh Hoạch (Xuân Lai) sang đến Ngọc Vực, Phúc Tỉnh (Yên Định).

Đầu năm 1929, ông Lê Huy Hoàng (giáo Huỳnh) người làng Vân Lộ (Thọ Nguyên), ông Trịnh Văn Ty (Cựu Khai) người làng Quân Bình (Hạnh Phúc) là đảng viên Tân Việt về khu vực làng Diên Hào (Thọ Lâm), làng Hương (Thọ Hải) xây dựng tổ chức cách mạng. Hoạt động chính là kết nạp những quần chúng tiến bộ vào tổ chức, tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, gây ảnh hưởng sâu rộng của tổ chức trong quần chúng nhân dân, bài trừ các hủ tục lạc hậu, chống lại sự cường hào, hách dịch của địa chủ, lý dịch trong làng và vận động quần chúng nhân dân học chữ Quốc ngữ.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản trong nước, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chỉ đạo.

Thực hiện chủ trương của cấp trên tháng 3 năm 1930, tại nhà ông Lê Lam Châu làng Mỹ Thượng (Xuân Hòa), Hội nghị của Tân Việt được tiến hành gồm các ông Lê Lam Châu, Lê Huy Hoàng(1), Hà Duyên Đạt, Lê Đình Ân, ông Ty, ông Mơn và ông Nguyền Văn Hồ, người cùa Tỉnh bộ. Hội nghị bàn chủ trương chuyển hóa hoạt động của Tân Việt sang hoạt động theo đường lối Cộng sản. Ông Lê Lam Châu được bầu làm Bí thư Chi bộ.

Vào đầu năm 1930, phong trào đấu tranh cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh. Vai trò lãnh đạo của tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và Tân Việt đảng gặp rất nhiều khó khăn, bất cập và hạn chế. Trước yêu cầu cách mạng đòi hỏi phải có một tổ chức cương quyết, cách mạng triệt để lãnh đạo. Đó là tổ chức Cộng sản, bộ tổng tham mưu, đội quân tiên phong của giai cấp vô sản.

Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh lên cao, địch càng lồng lộn, khủng bố mạnh, các cơ sở Đảng ở Thanh Hóa bị vỡ, nhiều đồng chí và quần chúng cách mạng bị địch bắt. Tháng 12-1930, đồng chí Lê Xuân Sinh và con là Lê Xuân Sản, bị bọn mật thám bắt giam tại nhà lao Thanh Hóa. Sau một thời gian địch tra tấn hết sức dã man nhưng hai đồng chí vẫn không khai báo gì cả; lúc đó đồng chí Sản mới có 17 tuổi, chưa đến tuổi thành án nên bọn địch phải tha về, còn đồng chí Sinh thì bị kết án 3 năm tù và bọn địch đã đưa đồng chí đi nhà lao Ban Mê Thuột.  Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị dìm trong biển máu, quần chúng bị tù đày, bắn giết, các cơ sở đảng bị vỡ hầu hết, phong trào tạm lắng xuống.

Tháng 10-1933, đồng chí Lê Xuân Sinh hết hạn tù được thả tự do, đồng chí lại tiếp tục hoạt động; để củng cố, xây dựng lại cơ sở đảng. Cuối năm 1933, Trung ương cử đồng chí Nguyễn Tạo vào Thanh Hóa1 Đồng chí Đinh Chương Dương đưa đồng chí Tạo thoát ly ở nhà đòng chí Sinh, do bị lộ ông đã đưa đồng chí Tạo xuống nhà đồng chí Lê Văn Kiệm là người vừa là thông gia, vừa là cảm tình cách mạng. Ở được một thời gian thì tình hình  ngày càng lộ, đồng chí Sinh lại đưa đồng chí Tạo vào thoát ly ở trại Hải Mao của tên điền chủ Nguyễn Mậu Cương (thường gọi là Quản Hoán) là anh ruột của đồng chí Nguyễn Mậu Sung.

Việc đồng chí Đinh Chương Dương đưa đồng chí Tạo lên thoát ly ở nhà đồng chí Sinh bị địch theo dõi nên bị lộ. Tháng 4/1934 đồng chí Đinh Chương Dương vào nhà đồng chí Sinh để báo cho đồng chí Sinh biết thì tối bị lộ và bị mật thám bắt ngay đồng chí Dương, đồng chí Sinh và vào bắt cả đồng chí Tạo ở trại Hải Mao.

Bị tù đày, giam cầm, địch tra tấn dã man, nhưng các đồng chí không khai báo gì, nhưng bọn địch vẫn viết án đồng chí Lê Xuân Sinh phải cầm tù. Trong khi đó quần chúng cách mạng không ai việc gì, riêng chỉ có ông Lê Văn Thân cảm tình và ông Trịnh Đình Biên lý trưởng và Hương đoàn Phấn Thôn bị địch bắt phạt tù 3 tháng về tội thiếu chức trách; Vì vậy, mà lòng tin của quần chúng đối với cách mạng càng tin cậy vững vàng.

Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, các Xứ ủy đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và phong trào đấu tranh chống thực dân phong kiến tại các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tại Thọ Xuân, tháng 7 năm 1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp (người của xứ ủy Bắc Kỳ), sau hai lần về Thọ Xuân đấu mối đã liên lạc được với Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Yên Trường (Thọ Lập), Yên Lược (Thọ Minh) và Chỉ Tín (Xuân Tín). Ngày 22 tháng 7 năm 1930, tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ (Yên Trường, Thọ Lập), tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản gồm 7 đảng viên(ỉ). Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Thọ Xuân và là chi bộ cộng sản thứ 3 trong tỉnh, sau Hàm Hạ (Đông Sơn) và Phúc Lộc (Thiệu Hóa).

Ngày 29 tháng 7 năm 1930, một sự kiện trọng đại của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã diễn ra tại nhà đồng chí Lê Văn Sỹ làng Yên Trường (Thọ Lập), đó là Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, do đồng chí Nguyễn Doãn Chấp chủ trì. Hội nghị đã quyết định nhiều chủ trương công tác có ý nghĩa mở đầu của Đảng bộ và phong trào cách mạng trong tỉnh.

Một là: Đẩy mạnh công tác tư tưởng, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê nin, chính cương vắn tắt, sách lược vẳn tẳt của Đảng, tích cực phát triển đảng viên, xây dựng mở rộng cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội đỏ.

Hai là: Thành lập cơ quan in tài liệu của Tỉnh ủy và xuất bản tờ báo ‘Tiến lên” cơ quan ngôn luận đầu tiên của Đảng bộ tỉnh.

Ba là: Đoàn kết, xây dựng, tổ chức, chỉ đạo quần chúng cần lao đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống chế độ thực dân, phong kiến.

Bốn là: Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 đồng chí Lê Thế Long, Lê Văn Sỹ và Vương Xuân Cát, đồng chí Lê Thế Long được bầu làm Bí thư.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ, báo “Tiến lên” cùng với các tài liệu khác của Đảng đã làm cho Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng mục đích, chính cương, sách lược vắn tắt của Đảng truyền bá sâu rộng trong quần chúng nhân dân lao khổ, thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng chống áp bức bóc lột. Ở huyện Thọ Xuân, các chiến sĩ cộng sản đã tổ chức rải truyền đơn kêu gọi quần chúng chống đế quốc phong kiến, kêu gọi tham gia Công hội đỏ, Nông hội đỏ. Truyền đơn rải ở phủ lỵ Thọ Xuân, phố Bái Thượng, đón điền Vạn Lại. Tại Vạn Lại đã xây dựng được tổ chức Công hội đỏ đầu tiên trong tỉnh, công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt lương.

Nhiều làng ở Thọ Xuân đã xây dựng được tổ chức Nông hội đỏ. Ở Yên Trường (Thọ Lập). Nông hội đỏ đã tổ chức cho nhân dân đấu tranh đòi chia lại công điền, công thổ vốn dĩ bị bọn hào lý, địa chủ chiếm đoạt. Tại Chỉ Tín, Nông hội đỏ vận động nhân dân không đi đắp đường vào ấp của quan Tri phủ.

Tại Thọ Hải (làng Hương, làng Hóa, làng Rạch, làng Phấn Thôn, làng Công Thành, làng Mậu Công) tuy chưa có tổ chức nông hội đỏ nhưng sách báo cách mạng vẫn được tầng lớp thanh niên trí thức trong các làng đọc tiếp thu, truyền khẩu qua các cuộc gặp gỡ ở hiệu may, hiệu cắt tóc, nơi có nhiều quần chúng bằng hình thức kể chuyện, và với nhiều hình thức khác, các chủ trương, sách lược của Đảng đã được ngấm ngầm thực hiện ở Thọ Hải.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh chống chính quyền thực dân phong kiến, chống đàn áp bóc lột... đã dấy lên mạnh mẽ ở khắp nơi trong tỉnh. Nhiều làng xã, đồn điền, nhà máy đã có tổ chức Nông hội đỏ, Công hội đỏ.

Cuối năm 1930, chính quyền thực dân phong kiến tung mật thám dò la và truy bắt các chiến sĩ cách mạng trong tỉnh. Tất cả các chi bộ Đảng, cơ sở cách mạng, tổ chức Nông hội đỏ, Công hội đỏ bị đánh phá. Các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, một số đảng viên, quần chúng bị địch bắt cầm tù. Phong trào cách mạng trong tỉnh tạm thời lắng xuống.

Những năm 1930 – 1931, Nghiêm Quý Ngãi cùng với Xuân Phương, đã rải truyền đơn về Thọ Xuân nói chung và Thọ Hải nói riêng về kêu gọi công nhân, nông dân, đoàn kết hang ngày ở vùng Bái Thượng Thọ Xuân, nôi dung của truyền đơn là kêu gọi công nhân, nông dân ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh

Là vùng đất có bề dày về lịch sử văn hóa truyền thống yêu nước, lại có chợ Hương nhiều người từ xa đến bán mua hàng hóa, nông sản, cũng là địa phương có nhiều người đến ngụ cư, địch tập trung theo dõi và thường xuyên khám xét, nhất là người gốc Nghệ An - Hà Tĩnh. Năm 1932, thực dân Pháp đặt đồn Bang tá tại Bái Thượng, có một trung đội lính chuyên đi lùng sục truy bắt cán bộ cách mạng. Ở tổng Diên Hào có thêm chức Tổng đoàn, mỗi làng chúng tổ chức một đội Hương Dũng chuyên theo dõi những người chúng tình nghi hoạt động cộng sản, hoặc có cảm tình với cách mạng. Trong những ngày kỷ niệm lớn như quốc tế lao động 1/5, công xã Pari 14/7... chúng cấm trước ba ngày không ai được đi khỏi làng, ban đêm không được ra đường, không nói chuyện quá ba người. Cùng với việc quản lý gắt gao, sưu thuế nặng nề, chính quyền thực dân phong kiến còn ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản như: Cộng sản vô thần triệt hạ tôn giáo, phá hết nhà thờ, đình chùa miếu mạo, tập trung ruộng vườn, nhà cửa, tài sản, vợ con...

Trước đó, vào đầu năm 1934, đồng chí Trịnh Hữu Thường người làng Trung Vực (Xuân Thành) đã về nhà ông Cố Thuộc làng Hương dạy học, đồng thời gây dựng lại phong trào đồng chí Nguyễn Mậu Sung về Thôn Hương Nhượng và cùng với đồng chí Nguyễn Tự Sản1 xây dựng phong trào cách mạng ở các làng thuộc tổng Diên Hào.

Mặc dù bị địch lừa bịp, khủng bố dã man, vào tù ra tội, nhân dân lao động Thọ Xuân nói chung và nhân dân Thọ Hải nói riêng vẫn một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

3.TỔ CHỨC TƯƠNG TẾ ÁI HỮU Ở XÃ THỌ HẢI (THỜI KỲ 1936- 1939)

Sau khủng hoảng kinh tế thời kỳ 1923-1933, tình hình thế giới đã chuyển biến sâu sắc, chủ nghĩa phát xít đã hình thành gồm 3 nước (Đức - Ý - Nhật) và đang ráo riết chuẩn bị gây chiến tranh nhằm chia lại thuộc địa và thị trường thế giới... trước tình hình đó, Quốc tế cộng sản đã họp và kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên toàn thế giới đoàn kết đâu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới. Tại nước Pháp, lực lượng dân chủ tiến bộ lên cầm quyền, đã ban hành nhiều chính sách tiến bộ cho nhân dân thuộc địa, năm 1936, Chính phủ Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Năm 1936, ở Thanh Hóa một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt đã thoát khỏi nhà tù về địa phương, cùng với các đồng chí hoạt động chưa bị lộ, những chiến sỹ cách mạng bị địch quản chế tại địa phương đã tăng thêm lực lượng lãnh đạo ở cơ sở, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh ngày một mở rộng và phát triển.

Mặc dù chưa liên lạc được với Trung ương Đảng và Xứ ủy, nhưng căn cứ vào sự chỉ đạo của Đảng in công khai trên các báo. Tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại làng Yên Lộ (nay thuộc xã Thiệu Vũ, Thiệu Hóa) vào tháng 12 năm 1936 để bàn chủ trương, biện pháp tổ chức đấu tranh công khai, bán công khai chống chính quyền thực dân phong kiến, đòi dân sinh, dân chủ. Các đồng chí Trịnh Hữu Thường,Nghiêm Quý Ngãi (Tỉnh ủy viên) và Nguyễn Mậu Sung được Tỉnh ủy phân công phụ trách Thọ Xuân nói chung trong đó Thọ Hải. Khi mới được ra tù, đồng chí Nguyễn Mậu Sung cùng với cán bộ các cơ sở lập Hội Tương tế ái hữu ở làng Quần Kênh (Xuân Giang), Nam Thượng (Tây Hồ), làng Kim Phúc, Phúc Thượng, tổng Diên Hào, làng Thượng Vôi, tổng Kiên Thạch (nay thuộc xã Xuân Hòa).

 

Năm 1936, Pháp (chính quyn) Đng cng sn Pháp, chiếm đa s trong ngh trường; thành lp, Mt trn bình dân cánh t nm chính quyn thi hành; Ci cách dân ch thuc đa như: tha tù chính tr, t do báo chí, t do ngôn lun. Sau đó phái đoàn Gô Đa sang điu tra, do đó các tù chính tr được tha. Các chiến sĩ cách mng li tiếp tc hot đng, phong trào qun chúng được lan rng khp nơi.

nh hưởng ca phong trào chung, qun chúng Nhân dân phn khi trông đi s lãnh đo ca Đng, ca các chiến sĩ cách mng, đ cng c li các t chc, đng chí Lê Xuân Sinh cùng con là Lê Xuân Sn đã tuyên truyn, giác ng mt s thanh niên hc sinh cùng v tham gia: Lê Văn Hu, Nguyn Xuân Liên, Lê Văn Đăng, Nguyn T Vin, Nguyn Danh N, Nguyn Duy Tiên, Nghiêm Quý Ngãi.

nh hưởng vi phong trào trong huyn, trong tnh, các đng chí và các người trên đã làm bn kiến ngh gi li phái b điu tra Gô Đa (Pháp) đòi tha tù chính tr, ci cách dân ch, t do báo chí, t do ngôn lun, t do hi hp, thành lp mt trn Dân ch Đông Dương (bn kiến ngh này do đng chí Hu viết và các đng chí đu ký). Các đng chí đã lãnh đo qun chúng tham gia cuc bu c đân biu Th Xuân, đưa ông Đ Bá Quý Xuân Hòa là đng viên Đng Tân Vit cũ ra tranh c vi tên Phm Văn Giáo là tên phn đng, tay sai ca đế quc Pháp. Cuc tranh c, tuy không thng li nhưng đã gây được nh hưởng tt trong qun chúng, trong Nhân dân; ngoài ra, cũng trong dp này các sách, báo, tài liu ca Đng được lưu hành sâu rng trong Nhân dân.

Qua tuyên truyn đng viên ca các chiến sĩ, cán b cách mng, do nh hưởng ca tài liu, sách báo ca đng, t nông thôn, đến thành th, đng ch trương thành lp các Hi ái hu, Hi tương tế. Mc đích, ca Hi ái hu là đoàn kết, thương yêu giúp đ ln nhau, cùng nhau đu tranh, đòi quyn li thiết thc, ci cách nông thôn; bi thế nên phong trào cách mng trong nước được lên cao, phong trào tương tế ái hu đã lan rng khp nơi.

Đảng ta thực hiện chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".

 Vào khoảng cuối năm 1936, đồng chí Trịnh Hữu Thường và đồng chí Nguyễn Mậu Sung đã xây dựng được Hội Tương tế ái hữu ở các làng  làng Hương, làng Hón, làng Rạch,làng Phấn Thôn (Thọ Hải) Hải Trạch, Thịnh Mỹ, Quần Đội, Quần Lai (Thọ Hải), Diên Hào (Thọ Lâm), mỗi làng từ 1 đến 2 tổ, mỗi tổ có từ 10 đến 15 người. Làng Hương, Làng Buốn, Hóa, Rạch, Phấn Thôn mỗi làng một tổ hoạt động dưới danh nghĩa là hội cày bừa, hội lợp nhà, hội hiếu hỷ... giúp nhau lao động sản xuất, khi có cha già mẹ héo, làm nhà, cưới vợ... Bên trong là tuyên truyền những chủ trương, sách lược của Đảng, tổ chức đấu tranh công khai, hợp pháp chống đế quốc, phong kiến, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tổ chức học chữ Quốc ngữ...

Nhân cụ thân sinh ra đồng chí Đỗ Bá Du làng Quần Lai mất, tất cả các tổ trưởng Hội Tương tế ái hữu trong vùng đều đến viếng và tổ chức tang lễ trang nghiêm, có đọc điếu văn, không có tổn phí tốn kém gì. Bọn chức dịch trong vùng như Cai tổng, Lý trưởng cũng không dám hoạch họe gì. Từ đám tang này, uy tín của cách mạng ngày một nâng cao, khối đoàn kết nhân dân ngày một mở rộng, số hội viên Tương tế ái hữu có làng lên đến hàng trăm người. Làng Hải Trạch và làng Quần Lai xóa bỏ việc hàng giáp, các tổ Tương tế ái hừu đề ra quy chế giúp đỡ nhau về kinh tế, các hội viên gặp khó khăn hoạn nạn. Thời gian này các sách báo cách mạng như “Vấn đề dân cày”, “Giai cấp là gì”, “Con đường cách mệnh” cùng nhiều sách báo khác của Đảng đã về đến các làng xã Thọ Hải, góp phần nâng cao trình độ chính trị, tinh thần đấu tranh của quần chúng cách mạng.

Ngay từ khi mới được thành lập, hoạt động của Hội Tương tế ái hữu các làng ở Thọ Hải phần nào đã giảm bớt những bức xúc trong đời sống nhân dân như các hủ tục lạc hậu cưới xin, ma chay, chống lại cường quyền áp bức, chống sưu cao thuế nặng... Chính vì vậy đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa, các chiến sỹ cộng sản ở Thọ Xuân đã chỉ đạo các Hội Tương tế ái hữu Thọ Hải vận động nhân dân chống lại “ Dự án luật thuế mới”, “Luật dự án thuế thân” thực chất là tăng thuế từ 2,7 đồng Đông Dương lên 3,6 đồng Duơng một suất đinh. Thuế thân là loại thuế vô lý lẽ ra phải loại bỏ, nay bọn thống trị lại tìm cách nâng cao. Hiểu rõ tính chất vô lý và bất công, các tổ chức Tương tế ái hữu ở Thọ Hải đã lấy được hơn 60 chữ ký lão bản dân nguyện gửi lên Viện dân biểu Trung Kỳ, bác bỏ “Dự án thuế thân mới” và tiếp tục đấu tranh bác bỏ “Dự án thuế điền thổ”.

Trước đó, vào giữa năm 1936, Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân Thọ Xuân phát triển khá mạnh, nhưng các cơ sở Đảng lãnh đạo phong trào đã chưa đuợc củng cổ một cách toàn diện. Để đẩy mạnh, phát triển và củng cố tổ chức cơ sở, Tỉnh ủy đã cử đồng chí Trịnh Hữu Thường về Thọ Xuân cùng với đồng chí Nguyễn Mậu Sung, Hoàng Sỹ Oánh cùng các cán bộ chủ chốt cơ sở xúc tiến công tác này.

Một hội nghị gồm các cán bộ chủ chốt các làng tổng đuợc tổ chức tại nhà đồng chí Lê Xuân Tuyên (làng Vân Lộ, Thọ Nguyên). Hội nghị đã bầu ban Vận động cách mạng huyện gồm 5 đồng chí: Trịnh Hữu Thường, Hoàng Sĩ Oánh, Nguyễn Mậu Sung, Lê Khánh Việt và Nguyễn Văn Anh (Nguyễn Văn Anh người làng Thịnh Mỹ, Thọ Hải).

Sau hội nghị ở Vân Lộ (Thọ Nguyên), các cán bộ trong ban Vận động bí mật về các làng, tổng cùng với những cán bộ chưa bị địch bắt, củng cố lại Hội Tương tế ái hữu, tổ chức cho nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp và b án hợp pháp.

Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với bản chương trình hành động trong đó có nêu việc thành lập một Uỷ ban của nghị viện điều tra tình hình chính trị và kinh tế ở các thuộc địa, cùng với nhiều nước thuộc địa khác các nhà yêu nước Việt Nam kêu gọi "tiến tới một cuộc Đông dương Đại hội" sáng kiến đó được đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ bằng bức thư ngỏ tháng 8-1936 nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội, lời kêu gọi đã dấy lên một phong trào sôi nổi trong nhân dân cả nước.

Đầu năm 1937, Tỉnh ủy chủ trương tổ chức cuộc vận động đón Gô-Đa, Gô-Đa là phái viên của Mặt trận bình dân Pháp được cử sang Đông Dương điều tra tình hình thuộc địa. Các tổ chức cách mạng ở các làng Thọ Hải cử 10 người đi thị xã Thanh Hóa đón Gô-Đa, đưa bản yêu sách gồm các điều: Giảm nhẹ sưu thuế, mở rộng quyền tự do, dân chủ, tự do đi lại, tự do tổ chức phường hội, thả tù chính trị, Cải cách hương thôn...

 Tháng 9-1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng nhuư hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

 Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức.

Nhiều cán bộ ở Thọ Hải lăn lộn với phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp, chống sưu cao thuế nặng, đón Gô-Đa đưa bản yêu sách như: ở làng Hón, Thịnh Mỹ…

Từ phong trào cách mạng, nhiều quần chúng ưu tú trung kiên đã giác ngộ lý tưởng cộng sản và đã được lựa chọn kết nạp vào Đảng. Nhiều chi bộ Đảng ra đời như chi bộ Long Linh Ngoại (Thọ Trường), Chi bộ ghép Xá Lẻ - Thuần Hậu - Ngọc Trung - Phong Cốc.

Sự ra đời của các chi bộ cộng sản đã làm phong trào cách mạng quanh vùng phát triển mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Thọ Xuân phát triển thành cao trào.

Tại huyện Thọ Xuân, sau vụ khủng bố gay gắt của địch vào cuối tháng 12 năm 1938, các chi bộ và tổ chức cách mạng vẫn kiên quyết tổ chức cho nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp và bán hợp pháp, đồng thời đưa một số bộ phận vào hoạt động bí mật.

Hưởng ng phong trào chung ca c nước, xã Th Hi đã có Hi tương tế Ái Hu lúc đầu có 42 người, Hi đã tho ra quy ước, điu l, Qu ca Hi là 42 thúng lúa và mt s tin, Hi đã thc hin giúp đ 2 gia đình làm nhà vì b hon nn. nh hưởng ca Hi đã lan rng trong Nhân dân. Phong trào tt lan rng và mt s hương lý tiến b cũng t nguyn xin ra nhp hi. Hi tương tế Hương Nhượng do các đng chí Nguyn T Vin lãnh đo, ph trách. Hi cũng đã có qu và thc hin mt s vic: giúp đ được mt gia đình làm nhà. nh hưởng tt này cũng được lan rng trong Nhân dân. Ngoài giúp đ nhau, Hi tương tế, còn vn đng ci lương hương t (Phn Thôn đã thc hin, được bn thng tr chp nhn cho thi hành); Hi còn vn đng Nhân dân đu tranh chính tr, đánh đ lý trưởng, đưa ngưởi ca hi viên ca hi vào thế chân như: Hi tương tế ca Hưng Nhượng.

Không nhng đu tranh chính tr, vn đng, tuyên truyn thuyết phc qun chúng đi theo cách mng mà Hi còn mua sách báo, tài liu ca Đng, hc tp chính tr, nâng cao trình đ mi đáp ng được trào lưu ca phong trào ca đt nước. Hai hi tương tế Phn Thôn, Công Thành và Hương Nhượng hot đng được mt thi gian thì bn cường hào, phn đng t giác vi bn quan li. Tri ph Phm Ngc Bích lên khám nhà c Lê Xuân Chc (c làm th qu ca Hi) tch thu s sách, điu l và quy ước ca Hi; tuyên b gii tán hi tương tế. Sau Y ch cho ci lương hương t Phn Thôn. Hi tương tế Hưng Nhượng vì đánh đ lý trưởng nên y hn thù và t giác lên bn quan li, bn chúng đã bt mt s đng chí như: Nghiêm Quý Ngãi, mt tháng tù giam ti nhà lao Thanh Hóa.

Dù cho hai Hi tương tế b gii tán, đng chí Ngãi b tù, nhưng các hi viên vn vng lòng tin, không hoang mang dao đng và vn tiếp tc hưởng ng và thc hin các cuc vn đng ca đng đ ra như mua sách báo, tuyên truyn, vn đng qun chúng, vn đng Nhân dân tham gia các cuc mít tinh, biu tình như Cuc mít tinh ch Neo ngày 14 - 7 – 1938, do Đng b huyn Th Xuân t chc mít tinh ngày k nim cách mng Pháp. Th Hi cũng đã t chc và có 60 người đi d mít tinh đu đi v an toàn do đng chí Liêm, đng chí Ngãi ph trách.

Cuc mít tinh ch Neo t chc công khai, và bán công khai, được qun chúng hưởng ng đông đo, rm r; hàng nghìn người d mít tinh đu phn khi, tin tưởng, chính vì thếnh hưởng tt ca cách mng đã lan rng ra toàn khp huyn. Đ dp tt phong trào đu tranh ca qun chúng Nhân dân bn quan li tung bn mt thám ra lùng bt b cán b cách mng đã t chc cuc mít tinh. Chúng đã lùng đón và bt mt s cán b cách mng như: đng chí Nguyn Văn Anh Th Diên, Trnh Hu Thường, Trnh Ngc Phóc Xuân Thành.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí mật và công khai.

Thực hiện chủ trương của Trung ương ngày 20 tháng 6 năm 1939, Tỉnh ủy Thanh Hóa quyết định chuyển một số cơ sở vào hoạt động bí mật và bán hợp pháp.

Tháng 7 năm 1939, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, hai đồng chí Trịnh Hữu Thường và Hoàng Sĩ Oánh đã tổ chức hội nghị cơ sở Đảng và tổ chức cách mạng ở Thọ Xuân. Hội nghị đã quyết định tổ chức mít tinh tại chợ Neo (Bắc Lương) nhân kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp (14/7/1939).

Thực hiện tinh thần hội nghị, đồng chí Nghiêm Quý Ngãi (người xã Thọ Hải) và Nguyễn Mậu Sung về các làng (nay thuộc xã Xuân Hòa) vận động quần chúng nhân dân về chợ Neo dự mít tinh, được hơn 100 người tham gia. Đồng chí Nguyễn Văn Anh về các làng Hương, Hón, Phấn Thôn, Công Thành vận động được 15 người tham gia.

Cuộc mít tinh ở chợ Neo có hàng ngàn người về dự, nòng cốt là Hội viên hội Tương tế ái hữu. Cuộc mít tinh do đồng chí Trịnh Hữu Thường diễn thuyết, phản đối bọn phản động thuộc địa bội tín tinh thần cách mạng tư sản Pháp, phản đối việc khủng bố Mặt trận dân chủ Đông Dương của nhà cầm quyền, lên án chủ nghĩa phát xít, kêu gọi toàn dân đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc tuần hành biểu dương lực lượng. Từ chợ Neo quần chúng chia làm nhiều đoàn đi về các địa phương, vừa đi vừa hô to khẩu hiệu: “Hoan nghênh tinh thần cách mạng tư sản Pháp”, “Kiên quyết phòng thủ Đông Dương”, “Đả đảo phát xít Đức - Ý - Nhật”, “Tự do, cơm áo và hòa bình muôn năm”. Cuộc mít tinh và tuần hành đã tác động lớn đến phong trào cách mạng ở Thọ Hải.

Sau cuộc mít tinh ở Chợ Neo, địch tập trung khủng bố mạnh vào các tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng có nhiều đảng viên, cán bộ cốt cán đã bị bắt. Đồng chí Trịnh Hữu Thường bị kết án 3 năm tù; đồng chí Nguyễn Văn Anh bị bắt giam 6 tháng, sau đó bị quản thúc tại địa phương.

Trong những năm 1936 - 1939, các tổ chức cách mạng ở Thọ Hải mà nòng cốt là Hội tương tế ái hữu, ở các làng đã vận động nhân dân đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt lính, đấu tranh chống lại cường hào bóc lột, bài trừ các hủ tục lạc hậu, giải tán phe giáp, giúp nhau lúc khó khăn hoạn nạn, giúp nhau làm nhà, cưới vợ, tang ma... đem lại quyền lợi thiết thực cho nông dân. Thông qua đấu tranh cách mạng, quần chúng đã học tập, rèn luyện nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, tạo ra những điều kiện cần thiết đưa phong trào cách mạng Thọ Hải đi lên ngày một rộng lớn và đấu tranh quyết liệt hơn.

II.PHONG TRÀO PHẢN ĐẾ Ở XÃ THỌ HẢI VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VỀ TAY NHÂN DÂN (1939 - 1945)

1.Phòng trào phản đế cứu quốc ở Thọ Hải 1939 -1941

Ngày 01-09-1939, Đức tấn công Ba Lan. Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, đế quốc Pháp tập trung sức người, sức của lao vào vòng chiến. Ở Việt Nam, Pháp và chính quyền tay sai thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tiến công vào Đảng ta và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được thời kỳ 1936-1939. Trước tình hình đó, ngày 29-9-1939, Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị cho các cấp ủy Đảng chuyên vào hoạt động bí mật và chuyển hướng bảo vệ lực lượng cách mạng.

Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp và đề ra chủ trương chuyển hướng quan trọng về đường lối và phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang trực tiếp đấu tranh đánh đổ chính quyền đế quốc, tay sai.

Tháng 10- 1939, nhận được chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thanh Hóa về chỉ đạo đình chỉ mọi cuộc mít tinh biểu tình để bảo toàn lực lượng, đồng thời chuyển hướng hoạt động của cơ sở Đảng, các tổ chức cách mạng vào bí mật. Vào thời điềm này, chính quyền thực dân phong kiến một mặt ra sức đàn áp khủng bố phong trào cách mạng trong tỉnh, truy bắt bỏ tù các đảng viên, cán bộ cách mạng của Đảng, một mặt ra sức vơ vét tài nguyên khoáng sản đưa về nước và cùng với việc tăng các loại thuế, thực dân Pháp còn bắt phu, bắt lính đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn cho chúng.

Sau vụ mít tinh và biểu tình ở chợ Neo, địch bắt đồng chí Trịnh Hữu Thường và Nguyễn Văn Anh, Hội Tương tế ái hữu ở các làng Hải Trạch, làng Hương, Hón, Mậu Thịnh hầu như tan rã.

Chiến tranh thế gii th 2 bùng n thì Mt trn bình dân Pháp b lt đ, bn đế quc bt đu khng b phong trào cách mng các thuc đa. Thc dân Pháp tuyên b gii tán các t chc qun chúng như: T chc nghip đoàn ca th thuyn, gii tán các Hi tương tế ca nông dân. Đ dp tt phong trào cách mng t gc, đu năm 1939, bn thc dân Pháp tung mt thám xung các vùng nông thôn, cùng bt cán b và chiến sĩ cách mng, Th Hi chúng đã bt đng chí Lê Xuân Sinh và chúng đưa đi nhà lao An Tri…Chúng giam cm, đánh đp tra tn quá dã man nhưng đng chí Sinh không mt li khai báo, và sau đó đng chí Sinh b m quá nng, chúng mi th. Bn thc dân Pháp tung mt thám đi lùng sc khp mi nơi khng b quá gay gt, dày đc mt thám, đ bo tn lc lượng, và đi vào cng c, duy trì các t chc cách mng, Đng ta phi rút vào hot đng bí mt.

Như T Hu đã nói: “Phong trào tm lng, phong trào li lên”. Các t chc Đng, t chc nghip đoàn ca th thuyn, các t chc qun chúng: Hi tương tế cũng rút vào hot đng bí mt.

Tháng 9 năm 1939,chiến tranh thế gii ln th hai bùng n, Mt trn Dân ch Đông dương b thc dân Pháp thng tay đàn áp. Cùng vi s đu hàng tho hip ca thc dân Pháp vi phát xít Nht, vn đ sng còn ca các dân tc Đông Dương đã đt ra. Tháng 11/1939 Đng Cng sn Đông Dương đã kp thi chuyn hướng ch đo, chuyn cuc vn đng Mt trn Dân ch thành Mt trn Dân tc thng nht chng chiến tranh đế quc vi tên gi chính thc: Mt trn Dân tc thng nht phn đế Đông dương nhm liên hip tt c các dân tc Đông Dương, các giai tng, đng phái, cá nhân có tinh thn phn đế mun gii phóng dân tc chng đế quc, bè lũ tay sai ca chúng và vua chúa bn x phn bi quyn li dân tc. Các t chc phn đế phát trin nhanh chóng dưới hình thc bí mt và công khai.

Hi ngh phân tích sâu sc tính cht, hu qu ca cuc chiến tranh thế gii; vai trò, v trí ca Đông Dương trong cuc chiến tranh đó; bn cht sâu xa trong các chính sách phn đng ca thc dân Pháp; thái đ chính tr ca các giai cp trong xã hi Vit Nam trước biến đng ca thi cuc và vch ra đường li chính tr, phương hướng, nhim v cách mng Vit Nam trong tình hình mi. Hi ngh nhn đnh, phát xít Nht s chiếm Đông Dương. B máy cai tr Đông Dương đang tng bước phát xít hoá, mt th phát xít thuc đa tàn bo và nhng k đng đu b máy đó đang mưu toan tho hip, đu hàng phát xít Nht. Các chính sách phn đng ca đế quc Pháp đy nhân dân đến ch cùng cc, lay đng hu hết các giai cp, tng lp xã hi, làm cho mâu thun xã hi vn sâu sc gia Pháp vi các tng lp nhân dân càng thêm sâu sc, đòi hi được gii quyết. Nhng nhn đnh và phân tích tình hình đó là cơ s cho vic đnh ra phương hướng hành đng ca toàn Đng, toàn dân đi ti gii phóng dân tc, giành chính quyn v tay nhân dân.

Hi ngh khng đnh hai nhim v cơ bn ca cuc cách mng tư sn dân quyn, là đánh đ đế quc và giai cp đa ch phong kiến không thay đi, nhưng phi được áp dng cho phù hp vi tình hình mi. Trong điu kin chiến tranh thế gii đã n ra và bn thng tr Đông Dương thi hành các chính sách vô cùng tàn bo, chà đp lên mi quyn sng ca nhân dân, Hi ngh xác đnh k thù c th, nguy him nht ca cách mng Đông Dương lúc này là ch nghĩa đế quc và bn tay sai phn bi dân tc, tính cht cuc cách mng hin ti là cách mng gii phóng dân tc. Nhim v trung tâm trước mt ca cách mng Vit Nam nói riêng và cách mng Đông Dương nói chung là đánh đ đế quc và tay sai, giành hoàn toàn đc lp cho dân tc: "Bước đường sinh tn ca các dân tc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đ đế quc Pháp, chng tt c ách ngoi xâm, vô lun da trng hay da vàng đ giành ly gii phóng đc lp".

Đ tp trung đông đo lc lượng dân tc, Hi ngh quyết đnh thay đi mt s khu hiu, chuyn hướng hình thc t chc và hình thc đu tranh:

Tm gác khu hiu tch thu rung đt ca giai cp đa ch; ch ch trương tch thu rung đt ca đế quc và tay sai.

Không nêu khu hiu lp Chính ph Xô Viết công nông mà đ ra khu hiu thành lp Chính ph Liên bang Cng hoà dân ch Đông Dương.

 Quyết đnh thành lp Mt trn thng nht dân tc phn đế Đông Dương thay cho Mt trn dân ch Đông Dương, nhm liên hip các lc lượng dân ch và tiến b, k c các t chc ci lương, đu tranh đòi dân sinh, dân ch.

V Đng, Hi ngh đã có nhiu ch trương cng c Đng, làm cho Đng phi thng nht ý chí và hành đng, phi mt thiết liên lc vi qun chúng, phi có vũ trang lý lun cách mnh, phi biết la chn cán b mi, phi cng c h thng t chc khp các vùng và min trong c nước, phi chú ý chng nn khiêu khích mt thám, t ch trích và đu tranh nhm chng c biu hin hu khuynh và "t" khuynh,... đ bo đm Đng vng mnh làm tròn s mnh lch s khi cao trào gii phóng dân tc được đy mnh.

Hi ngh Ban Chp hành Trung ương tháng 11-1939, đánh du s trưởng thành ca Đng, c th hoá mt bước đường li cu nước trên tinh thn ca Cương lĩnh đu tiên được hoch đnh t khi thành lp Đng. Đây là s chuyn hướng t đu tranh chính tr, hoà bình đòi quyn dân sinh dân ch sang đu tranh vũ trang - bo lc, kết hp đu tranh chính tr vi đu tranh vũ trang và khi nghĩa vũ trang đ giành chính quyn; t hot đng công khai, hp pháp, na hp pháp là ch yếu chuyn sang hot đng bí mt, bt hp pháp là ch yếu. Nhng ch trương ca Hi ngh Ban Chp hành Trung ương tháng 11-1939 tiếp tc được b sung, hoàn chnh Hi ngh Trung ương (tháng 11-1940) và Hi ngh Trung ương tám (tháng 5-1941).

Thực hiện nghị quyết của Mt trn phn đế cu quc Nhân dân Thọ Hải hot đng khp nơi; Năm 1940, đng chí Long, đng chí Ngãi là người xã là thành viên ca Mt trn phn đế cu nước. Được phái v đa phương, bt liên lc vi nhng người hot đng cách mng và đã cng c li cơ s cách mng, cng c li các t chc qun chúng như: Hi tương tế, vi lòng yêu nước sn có, lòng căm thù đế quc, phong trào ca xã t nhng năm 20 ca thế k XX, trong thi gian ngn, cơ s cách mng, các t chc qun chúng được cng c li và chuyn sang t chc cu quc, và sau này là đi t v cu quc và các đi t v đi vào hot đng do đng chí Liêm, đng chí Hiu, đng chí Sn ph trách. Cùng vi phong trào cách cách mng c nước, các đoàn th qun chúng, ph n, thanh niên, nông dân các thôn được thành lp, Phn Thôn do đng chí Sn, đng chí Liêm, đng chí Hiu ph trách, Hương Nhượng do đng chí N ph trách.

Các t chc cách mng đi vào hot đng bí mt đã đóng được mt s qu rt ln; Ban đêm thì hi hp bí mt đ nghe tài liu ca Đng, ca cách mng, xem báo chí như: Báo Búa Lim, Báo Gii Phóng. Đi t v bí mt, đêm đến tp võ, tp gy ti nhà ông Lê Văn Đ. Có người li được c đi d lp hun luyn ca Đng thôn Phúc Thượng (Xuân Hòa). Các đoàn thế cu quc, các đi t v đã quyên góp tin mua sm vũ khí, các th quân trang, quân dng: Kiếm, băng c, ng nhòm, qun, áo, mũ.

Trong các đoàn th cu quc, các đi t v, anh ch em rt tin tưởng, vào cách mng nên đã tham gia đóng góp tin, ca đ ng h cách mng; có nhng người không có tin thì tình nguyn bán nhng th, nhng vt không cn thiết đ ly tin ng h cách mng như: gia đình đng chí Vy làng Phn Thôn. Được s tuyên truyn, đng viên, giác ng cách mng, xã ta đã có nhiu gia đình như: gia đình c Lâm, gia đình ông Lê Văn Đ, ông Vinh, ông Hi…Tuy bn đế quc, bn mt thám lùng sc tìm bt cán b, chiến sĩ cách mng nhưng cũng không sao dp tt được ngn la cách mng khi đã bén vào lòng dân. Cán b, chiến sĩ cách mng tuy b lùng sc, bt b nhưng các chiến sĩ, cán b vn da vào lòng dân nên các cơ s, các t chc ngày càng ln mnh và phát trin rng rãi. Bi mt l vì các cán b, chiến sĩ, đã được nhiu gia đình, nuôi dưỡng và che du; được dân nuôi dưỡng, che tr; các cán b, chiến sĩ, cách mng vn tiếp tc sinh hot, thc hin theo ch trương, đường li cách mng mà không b l liu. Đ đm bo bí mt, mi khi giao nhn tài liu, hoc hi hp, hoc liên lc vi nhau là cánh đng Mã Chí, cánh đng Phượng (thuc cánh đng Ba Ch ngày nay); Các đa đim hi hp ban đêm ca đi, hoc mi khi giao nhn tài liu, các đa đim luôn luôn thay đi đ đánh lc hướng đch. Công vic hot đng và thc hin công tác đu do s lãnh đo ca ban Tng y Diên Hào.

Tháng 04-1940, Đức tấn công sang phía Tây, chiếm Đan Mạch, Na-uy, Bỉ, Phần Lan, Lúc-xăm-bua và Pháp. Tấn “thảm kịch” nước Pháp “Quân Đức tiến vào Pari”: Sau khi chọc thủng phòng tuyến Maginô ở miền Bắc nước Pháp, ngày 05-6-1940, quân Đức tiến về phía Pari như bão táp. Chính phủ Pháp tuyên bố “bỏ ngỏ” thủ đô và chạy về Boóc-đo, một bộ phận do tướng Đờ Gôn cầm đầu bỏ đất Pháp ra nước ngoài, dựa vào Anh, Mĩ tiến hành cuộc kháng chiến chống Đức. Bộ phận còn lại do Pêtanh đứng ra lập chính phủ mới, ngày 22-6-1940 kí với Đức hiệp ước đầu hàng nhục nhã (Pháp bị tước vũ trang, hơn 3/4 lãnh thổ Pháp bị Đức chiếm đóng và Pháp phải nuôi toàn bộ quân đội chiếm đóng Đức).

Trước tình hình Tỉnh ủy đã quán triệt Nghị quyết Trung ương VI; vào tháng 2-1940, tại làng Phúc Bồi (Thọ Lập), đồng chí Trần Hoạt (Trần Bảo) chủ trì hội nghị gồm 50 cán bộ là đại biểu của các làng, bàn chủ trương, biện pháp chuyển các đoàn thể dân chủ sang đoàn thể phản đế cứu quốc và thành lập đội tự vệ cứu quốc.

Tháng 6-1940, đồng chí Nguyễn Đức Cúc (tức Nguyễn Văn Linh) trên đường vào Nam đã liên lạc được với đồng chí Trần Hoạt(l) về làng Kim Ốc (Xuân Hòa). Tại đây, đồng chí đã biên tập tài liệu “Những điều cần biết của người cộng sản” và giúp ban cán sự huyện hoàn chỉnh điều lệ Hội phản đế cứu quốc. Điều lệ tự vệ cứu quốc và ấn hành báo “Tự do”, các tài liệu quan trọng này đều được chuyển về Hội phản đế cứu quốc các làng nghiên cứu và học tập.

Đến tháng 10-1940, Hội phản đế cứu quốc đã lan rộng ra toàn tỉnh, nhiều làng số hội viên phản đế đã lên đến hàng trăm hội viên. Lực lượng tự vệ cứu quốc và du kích cũng không ngừng phát triển.

Tại Thọ Hải, sau một thời gian bị mất liên lạc với tổ chức Đảng, các đồng chí Nguyễn Văn Anh, Nguyễn Bá Ký, Đỗ Bá Nam đấu mối với các hội viên Tương tế ái hữu cũ, chuyển thành hội phản đế cứu quốc.

Tại Thọ Hải để hưởng ứng phong trào khởi nghĩa ở Bắc Sơn và Nam Kỳ, đồng thời kêu gọi toàn dân chống bắt phu, bắt lính, không nộp thuế cho địch, đầu tháng 6-1941, ban cán sự Phản đế cứu quốc huyện Thọ Xuân quyết định tổ chức mít tinh tại Mã Mây cánh đồng Ba Chạ. Thành phần về dự mít tinh và biểu dương lực lượng là hội viên Mặt trận Phản đế cứu quốc và tự vệ cứu quốc của các làng thuộc hai tổng Diên Hào và Kiên Thạch. Đồng chí Lê Thanh Long được phân công diễn thuyết, tố cáo tội ác của thực dân phong kiến, kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh, không đi phu, đi lính cho địch, không nộp thuế cho địch.

Dưới sự hướng dẫn của ban tổ chức, lực lượng dự mít tinh hô vang khẩu hiệu: Không nộp thuế cho địch! Không đi phu đi lính cho địch!

Cuộc mít tinh ở cánh đồng Ba Chạ đã phát huy thanh thế lực lượng vũ trang cách mạng, hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, đã phát huy tinh thần yêu nước, phong trào cách mạng ở Thọ Hải.

Đầu tháng 6-1941, Tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tại làng Phúc Tỉnh (Yên Thịnh, Yên Định) bàn biện pháp thúc đẩy phong trào phản đế cứu quốc lên cao trào. Hội nghị dành thời gian xúc tiến việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Đảng bộ được chia làm ba bộ phận đi xây dựng căn cứ địa cách mạng ba vùng1.

Sau khi đoàn công tác của đồng chí Trần Bảo phụ trách bị sa vào tay giặc ở đồn điền Yên Mỹ. Việc xây dựng căn cứ địa Tây Nam không thành.

Tháng 7-1941, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa quyết định thành lập chiến khu Ngọc Trạo huyện Thọ Xuân và thành lập ban chỉ huy chiến khu gồm các đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trịnh Huy Lãm (Trần Tiến Quân) và Đặng Văn Hỷ.

Từ đây Thọ Xuân và các huyện Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Hà Trung, Thọ Xuân có nhiệm vụ tuyển lựa tự vệ, du kích ưu tú đưa lên chiến khu và chi viện lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men, vũ khí... đảm bảo công tác hậu cần cho chiến khu.

Đầu tháng 10-1941, đồng chí Nguyễn Văn Hiêu (?) người làng Phấn Thôn (Thọ Hải) liên lạc được với tổ chức Đảng báo cho đồng chí Nguyễn Văn Anh (Thịnh Mỹ), Đỗ Bá Du (Quần Lai) và Nguyễn Văn Mầm (Hải Trạch) lựa chọn trong làng những tự vệ tích cực, có sức khỏe, tập trung về Đa Ngọc (Yên Giang, Yên Định) để lên chiến khu Ngọc Trạo theo thời gian và mật khâu liên lạc. Đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8-10-1941, anh em tự vệ Thọ Hải do các đồng chí Nguyễn Văn Anh, Đỗ Bá Du, Nguyễn Văn Mầm phụ trách đến nơi đã hẹn thì bị mất liên lạc. Ngày 8-10-1941, địch phát hiện tự vệ du kích của ta tập kết tại Đa Ngọc, chúng tập trung lực lượng binh lính, mật thám bao vây tiến công Đa Ngọc. 100 chiến sỹ tự vệ du kích của ta bằng vũ khí thô sơ đã chiến đấu ngoan cường, rồi phân tán từng tốp nhỏ nhờ vào sự che chở của nhân dân rút lên chiến khu Ngọc Trạo.

Tháng 5 - 1941, đng chí Lê Văn Long (ph trách quân s v Tng) do s điu đng ca cp trên đi công tác khác. Ban ch huy quân s tng đươc bu li, gm có 3 đng chí: đng chí Nguyn Văn Liêm Ch huy trưởng; Đ Văn Trinh và Lê Văn Nh (Xuân Hòa) được bu là ch huy phó; các đng chí đã t chc cuc mít tinh toàn tng vào ti th 5 tháng 5 - 1941, ti Đng Lung (Phn Thôn). Cuc mít tinh, này là đ tp duyt qun chúng, đng thi, đ gii thiu Ban ch huy và cng c lòng tin ca qun chúng; cuc mít tinh t chc rt rm r trong đêm ti và luôn đ cao cnh giác, mi người mt khí gii, k gy, người cuc, t khp các ngã kéo v, t trên làng Dun (Th Lâm), đu tng đến xóm c, Kim thôn (Xuân Hòa) cui tng. Cuc mít tinh có ti 400 - 500 người, mc dù trong đêm ti mưa gió, k đch li rình mò, theo dõi, nhưng mi người đi d mít tinh vn hăng hái, đy dũng khí, tin tưởng vào cách mng, vào ban ch huy mi, mi người đu đi tp trung đúng gi, đy đ mt cách nhanh chóng. Mc dù bn mt thám, bn phn đng luôn rình mò theo dõi mà vn không biết. Cuc mít tinh đã giành được thng li là khi đi cho đến khi v, mi người đi d mít tinh vn an toàn.

Sau khi căn c Đa Ngc ca tnh b tan v, Chiến khu Ngc Tro được thành lp. Các đi t v 3 thôn đã c người tham gia như: đng chí Son, đng chí T, đng chí Sách, đng chí Vy nhưng khi các đng chí đi đến nơi thì chiến khu Ngc Tro b v, các đng chí đành quay v.

Cui năm 1941 phong trào cách mng lên cao, nh hưởng cũng ln trong qun chúng nhưng cũng to điu kin cho đch d theo dõi. Đch tung rt nhiu mt thám đi khp mi nơi đ dò la, thám thính. C 3 thôn xã ta đch cũng tung mt thám, bn Hương, lý phn đng rình mò, theo dõi. Sau khi nm được tình hình ca cách mng; chúng bt đu, khng b, chiến khu Ngc Tro b v, cơ s các nơi b l, xã ta đng chí Ngãi, đng chí Long b truy lùng ráo riết; đng chí Sn, hot đng Tng cũng b khám nhà và b bt. Còn li: đng chí Ngãi, đng chí Sn, đng chí Hiu, đng chí Vy và mt s qun chúng cũng đu b tình nghi. Ông Lê Văn Đ, b giam 2 tháng vì chúng tình nghi ông này hot đng thôn.

Lúc by gi đch khng b ráo riết khp nơi, các cơ s trong tnh, trong huyn đu b v, nhiu cán b cách mng b bt b tù đy, tra tn, gia đình b tình nghi khám xét, có nơi đch cho lính v phá phách, d nhà ca ca các chiến sĩ làm đn bt đ canh gác như: Phong Cc, Xá Lê (Xuân Minh) không nhng bn gic bt b, cm tù, tra tn các chiến sĩ hết sc dã man mà chúng còn khng b c gia đình, còn các đng chí cán b, chiến sĩ cách mng thì chúng tước hết quyn li chính tr ca người dân. Tha hành, bn quan trên, bn hào lý, Phn thôn, Hưng Nhượng đã trut phn đt bãi ca Nhân dân chia cho các đng chí, trước kia các đng chí được ch đt tt nay bn hào lý trut đi xung ch bãi xu đ chúng phân bit chính ng, khách ng.

 

Đa Ngọc bị vỡ, lực lượng tự vệ du kích Thọ Hải quay về địa phương xây dựng lực lượng, vận động nhân dân đấu tranh chống đàn áp, khủng bố, bắt phu bắt lính, đồng thời tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ bộ mặt thật của thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền tay sai.

Đêm 18 rạng ngày 19-10-1941, thực dân Pháp tập trung 500 lính và 1.000 tuần đinh tấn công vào Ngọc Trạo. Lực lượng vũ trang cách mạng với vũ khí thô sơ, lợi dụng vào địa hình chống trả quyết liệt, lợi dụng trời còn tối rút về Cẩm Bào, Xuân Áng (Vĩnh Lộc), được nhân dân che giấu. Từ đây phân tán về các địa phương, dựa vào nhân dân tiếp tục đấu tranh.

Chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai tập trung lực lượng mật thám, binh lính khủng bố trắng các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc... Nhiều cơ sở cách mạng trở thành mục tiêu đánh phá của địch. Hàng trăm cán bộ, đảng viên ở các làng bị bắt, tra tấn, giam cầm. Nhà tù Thanh Hóa chật ních các chiến sĩ cộng sản, chiến sĩ tự vệ du kích. Nhiều làng mạc bị triệt hạ, tài sàn của nhân dân bị tước đoạt.

Sự khủng bố của địch đã gây cho phong trào cách mạng của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn. Căm thù giặc cao độ, nhân dân ta bất chấp tù tội, gông cùm, súng đạn đã đứng lên đấu tranh bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở Đảng, chống khủng bố, đàn áp. Những đảng viên không bị bắt đã tự liên lạc với nhau tổ chức hội nghị ở làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hóa) vào tháng 11-1941, chủ trương củng cố lại phong trào cách mạng trong tinh. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời gồm các đồng chí: Nghiêm Quý Ngãi, Hồ Sĩ Nhân, Đồ Đan Quế và Trần Kim Tế, cử đồng chí Nghiêm Quý Ngãi làm Bí thư.

Tỉnh ủy lâm thời tiến hành củng cố lại cơ sở cách mạng trong tỉnh, tìm cách liên lạc với Xứ ủy và trung ương Đảng, tổ chức rải truyền đơn ở nhiều nơi, kêu gọi nhân dân đuổi giặc cứu nước, treo cờ đỏ búa liềm ở Vân Đồn nhằm thông báo cho nhân dân trong tỉnh biết: Đảng bỏ Thanh Hóa vẫn còn và đang hoạt động, phong trào caeh mạng tất yếu sê đi đến thành công.

 Cuối năm 1941, Tỉnh ủy lâm thời lại bị khủng bố và tsn rã. toàn bộ Ban Chấp hành và nhiều quần chúng cách mạng bị địch bắt. Đầu năm 1942, một số cán bộ cộng sản chư Lê Tất Đắc, Trịnh Ngọc Điệt, Hoàng Tiến Trình, Hoàng Xung Phang... trốn khỏi nhà tù Ban Mê Thuột và trại tập trung Ly Hy lần lượt trở về Thanh Hóa, đấu mối với các cơ sở tiếp tục hoạt động.

Đầu tháng 7-1942, khi biết chắc chắn Tỉnh ủy thời đã tan rã, một hội nghị được tổ chức tại làng Thượng (xã Nga Tháng, Nga Sơn) thành lập Tỉnh ủy lâm thời và cử đồng chí Lê Tất Đắc làm Bí thư. Hội nghị đề nghị chủ trương công tác như: Ra báo “Đuổi giặc nước”, thành lập tổ chức ‘Thanh Hóa ái quốc hội” tìm cách liên lạc với Trung ương Đảng xin ý kiến chỉ đạo.

Cuối năm 1942, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã liên lạc được với cơ sở Đảng ở Hà Nội, nhận được Nghị quyết Trung ương 8 (tháng 5 năm 1941) và chương trình hoạt động CL2 Mặt trận Việt Minh. Tỉnh ủy quyết định chuyển “Thanh Hóa ái quốc hội” thành “Mặt trận Việt Minh”, đưa phong trào cách mạng Thanh Hóa hòa nhập với phong trào cách mạng chung của cả nước.

Mặc dù vào thời điểm cuối năm 1941, đầu năm 1942 thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai thăna tay đàn áp và khủng bố trắng các cơ sở Đảng và tô chức cách mạng, nhùng chiến sỹ cách mạng chưa bị bắt vẫn dựa vào sự che chở của nhân dân aây dựng lại phong trào. Đồng chí Nguyễn ỈChẳc Thục (tên thật là Lê Văn Bệ) người làng Thượng Vôi (Xuân Hòa) sau khi bắt liên lạc được với các đồng chí cán bộ từ ngoài Bấc vào Thanh Hóa đã về Thọ Hải xây dựng cơ sở, được gia đình bà Đỗ Thị Đích làng Hải Trạch và gia đình bà Nguyễn Thị Bạn làng Thịnh Mỹ nuôi giấu, che chở, bắt mối với đồng chí Nguyễn Văn Anh (Thịnh Mỹ), Lê Văn Yến (Diên Hào) xây dựng tổ chức Việt Minh ở các làng, mỗi làng lúc đầu được ba, bốn người. Làng Thịnh Mỹ do đồng chí Nguyễn Văn Anh phụ trách; làng Hải Trạch do đồng chí Đào Trọng Tuyến phụ trách; làng Quân Đội do đồng chí Đinh Đức Tương phụ trách; làng Quần Lai do đồng chí Đỗ Bá Du phụ trách và làng Diên Hào do đồng chí Lê Văn Yến phụ trách.

Đầu năm 1943, đồng chí Lê Lam Châu (Lê Văn Tương) người làng Mỹ Thượng (Xuân Hòa) đã bắt liên lạc được với đồng chí Nguyễn Văn Hồ, người của Tỉnh ủy phân công phụ trách phong trào cách mạng Thọ Xuân. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ và Mặt trận Việt Minh Thọ Xuân cử trực tiếp đồng chí Lê Lam Châu lãnh đạo Mặt Việt Minh tổng Diên Hào. Cũng từ đây cương lĩnh Mặt trận Việt Minh được phổ biến rộng rãi ở các làng, xã hai tổng Diên Hào và Kiên Thạch.

Mùa hè năm 1943, theo lệnh của phát xít Nhật, Pháp và quyền tay sai không thu thuế bằng tiền mà thu bằng thóc để phục vụ cho chiến tranh. Thực hiện chủ trương của tỉnh ủy, Mặt trận Việt Minh các làng tổ chức cho nhân dân đấu tranh không nộp thuế bằng thóc và kêu gọi lý hương không thi hành lệnh thu thuế, không đi phu, đi lích cho địch, không để một lạng bông, cân thóc lọt vào tay Nhật - Pháp.

Cuối năm 1943 đầu năm 1944, phong trào đuổi giặc cứu nước trở thành cao trào rộng khắp phủ Thọ Xuân. Lực lượng tự vệ, du kích ngày một lớn mạnh. Lực lượng tự vệ chiến đấu Thọ Hải không ngừng phát triển, làng Thịnh Mỹ có 16 chiến sỹ do ông Ngô Đình Mẫn và ông Lưu Đình Sinh chỉ huy. Làng Hải Mao có 13 chiến sỹ do ông Đào Trọng Tuyến chỉ huy. Làng Quần Đội có 9 chiến sỹ do ông Đàm Duy Nhượng chỉ huy. Làng Quần Lai có 16 chiến sỹ do ông Đỗ Bá Thiên chỉ huy. Các đội tự vệ ngày đêm luyện tập, chủ yếu là tập võ dân tộc, vũ khí là giáo mác, kiếm, gậy. Trước sự phát triển của lực lượng tự vệ vũ trang cách mạng trong tổng, trong huyện, các vị chức dịch trong làng không dám đàn áp ngăn cấm, phần lớn ngả về phía cách mạng. Ở Quần Lai, tổ chức phân công ông Đỗ Bá Năm là quần chúng cách mạng ra làm Lý trưởng, tạo điều kiện cho các tổ chức cách mạng hoạt động. Lý trưởng làng Quần Đội là ông Đinh Đức Khoa hoạt động cho cách mạng, ông Nguyễn Văn Cặn là Lý trưởng làng Hải Mao đã ngả theo cách mạng, gia đình ông là nơi hội họp của các tổ chức. Chỉ còn Lý trưởng làng Thịnh Mỹ là đứng ở bên ngoài.

Mùa thu năm 1944, sông Chu lụt to, đê vỡ nhiều nơi làm lúa mùa và hoa màu mất trắng. Và cùng với sự vơ vét lương thực của Nhật - Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đầu năm 1945.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa và cơ sở Đảng phủ Thọ Xuân, Mặt trận Việt Minh ở các làng đấu tranh chống âm mưu vơ vét thóc gạo của địch, tích cực chống đói, cứu đói với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Các tổ chức cứu quốc đã vận động các gia đình còn thóc ăn dành một phần lương thực ủng hộ các gia đình nghèo đói. Tổ chức cho nhân dân làm đơn đòi Tri phủ Thọ Xuân cứu tế. Tổ chức đến các nhà giàu vay thóc gạo.

Thông qua phong trào chống đói, cứu đói, Mặt trận Việt Minh các làng trong xã đã tập hợp được lực lượng, quần chúng đông đảo, chuẩn bị thời cơ vùng dậy đánh đuổi Nhật - Pháp.

Trước đó, vào cuối năm 1944, mặc dù bị thiên tai, mất mùa, phát xít Nhật thúc ép thực dân Pháp và bọn tay sai thu mua lương thực, bông sợi, bắt phu, bắt lính. Lãnh binh Nhật ở Thanh Hóa bắt buộc công sứ Pháp ở Thanh Hóa phải giao nộp cho Nhật 900.000 tạ gạo. Thi hành lệnh của Nhật, thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã đóng thuế điền thổ lên thêm 2,1kg thóc một sào vùng có nông giang và 1,4kg vùng không có nông giang, đồng thời ra lệnh cho tổng lý phải thu mua bình quân 120kg thóc một mẫu. Thủ đoạn bóc lột của Nhật - Pháp đã đè nặng lên đầu, lên cổ nông dân. Thực hiện lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng của tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa, Mặt trận Việt Minh các làng cùng các tổ chức cứu quốc tuyên truyền cho nhân dân: "Nạp lúa cho giặc là cấp lương thực cho giặc khoẻ tay bắn giết dân ta... thà bán rẻ cho nhân dân, còn hơn bán đắt cho giặc... giữ lấy thóc gạo mà ăn”.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Mũi nhọn đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta lại chĩa thẳng vào phát xít Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh Thọ Xuân, Mặt trận Việt Minh các làng tổ chức cho nhân dân đấu tranh vạch trần chiêu bài độc lập giả hiệu của bọn Việt gian Đại Việt. Các ông Nguyễn Đức Trung, Nguyễn Mậu Thi nhiều lần rải truyền đơn của Việt Minh ở các đình làng và chợ Đường, nội dung kêu gọi nhân dân đoàn kết chống Nhật và chống lại âm mưu bán nước của bọn Việt gian Đại Việt. Bằng nhiều hình thức đấu tranh vận động, chỉ vài tuần tổ chức Thanh niên Đại Việt ở Thọ Xuân tan rã, được cách mạng giác ngộ, phần lớn anh em tham gia Đại Việt gia nhập tự vệ cứu quốc.

Tình hình thế giới

Từ tháng 5 năm 1945, phong trào cách mạng ở Thọ Xuân (gồm cả 16 xã vùng tả ngạn sông Chu ngày nay) đã lên tới đỉnh điểm. Các hoạt động tuyên truyền cổ động trong huyện đã nâng lên hình thức vũ trang tuyên truyền. Các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy biểu dương lực lượng diễn ra liên tiếp. Cuộc tuần hành thị uy tháng 6 năm 1945 của hàng ngàn quần chúng tự vệ tông Nam Dương. Mít tinh ở chợ Thạc tổng Phú Hà, cuộc mít tinh ở Đồng Cát (Thọ Nguyên)... đã lên án tội ác của phát xít Nhật, vạch trần chính phủ tay sai Trần Trọng Kim và chiêu bài độc lập giả hiệu của bọn Việt gian Đại Việt.

Thực hiện chủ trương của cấp trên để phù hợp với yêu càu của cách mạng, tháng 7 năm 1945, Mặt trận Việt Minh hai tổng Diên Hào và Kiên Thạch mở lớp tập huấn quân sự và chính trị. Lớp có 22 đội viên, được mở ở nhà đồng chí Hồ Văn Trang làng Kim Ốc (Xuân Hòa), thời gian 7 ngày, do đồng chí Hoàng Văn Ngữ làm giảng viên. Thọ Hải có đồng chí...làng Hương, Nguyễn Văn Mầm (Hải Trạch) tham gia. Từ lớp học này, các học viên đã nâng cao về trình độ lý luận chính trị, trình độ chỉ huy tác chiến và là nòng cốt của các đội tự vệ, du kích ở các làng.

Cuối tháng 7 năm 1945, một cuộc họp được tổ chức tại làng Hương Nhượng (Thọ Hải) gồm đảng viên và cán bộ Việt Minh ở các làng thuộc tổng Diên Hào, bàn chủ trương phát triển Mặt trận Việt Minh ở cơ sở, xây dựng các đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc; phát triển lực lượng tự vệ vũ trang, tập hợp quần chúng, chuẩn bị một cuộc tuần hành thị uy cảnh cáo bọn tay sai thân Nhật. Vào thời điểm này, không khí chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyển rộn ràng khắp tổng, huyện. Chính quyền tay sai rệu rã. Ở chợ Hón[16] có ông Kháng Dương làm thợ rèn ngày đêm rèn gươm, giáo, mã tấu, dao tầm cho đội tự vệ vũ trang trong làng, cất giấu hàng tháng đợi lệnh Việt Minh giao cho cán bộ. Ông Nguyễn Mậu Mưu bí mật may cờ đỏ sao vàng và phù hiệu tự vệ. Lực lượng tự vệ, du kích luyện tập ngày đêm. Các đoàn thể cứu quốc vừa được thành lập cũng hoạt động rất sôi nổi. Tất cả đã sẵn sàng chuẩn bị cho khởi nghĩa.

 Từ ngày 13 đến ngày 16-8-1945, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức hội nghị tại làng Mao Xá (Thiệu Toán, Thiệu Hóa) bàn biện pháp xúc tiến việc khởi nghĩa. Ngày 15-8, nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, Tỉnh ủy quyết định khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn toàn tỉnh và hướng dẫn việc thành lập ủy ban khởi nghĩa, ủy ban nhân dân lâm thời các huyện.

Đồng chí Hoàng Sĩ Oánh được Tỉnh ủy chỉ định làm Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa và Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân.

Ngày 17-8, ủy ban khởi nghĩa đồng thời là Ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân được thành lập gồm các đồng chí: Hoàng Sĩ Oánh, Hoàng Văn Cài. Hoàng Văn Ngữ, Hồ Sĩ Nhân, Nguyễn Mậu Sung, Nguyễn Mậu Kiện và Lê Xuân Tại. Ủy ban khởi nghĩa chỉ định hai đồng chí Nguyễn Mậu Sung và Hồ Sĩ Nhân làm Trưởng ban khởi nghĩa hai tổng xung yếu quanh huyện lỵ là Kiên Thạch và Nam Dương.

Tối ngày 18-8, đồng chí Nguyễn Văn Anh và Nguyễn Văn Ân bí mật về Dốc Láng (Xuân Hòa) nhận kế hoạch và lệnh khởi nghĩa. Hội nghị do đồng chí Hồ Sỹ Nhân chủ trì. Sau khi nghe các làng trong tổng Diên Hào báo cáo về lực lượng tự vệ vũ trang từng làng và kế hoạch khởi nghĩa của tổng: nhanh chóng tập trung lực lượng tự vệ ở các làng, đem theo vũ khí và cờ đỏ sao lực lượng tự vệ vũ trang tổng Diên Hào tập trung ở một địa điểm. Các làng Hương Thôn, Mậu Thịnh lên đến Mục Sơn tập trung tại Tứ Trụ, do đồng chí Nguyễn Văn Anh ch huy; các làng vùng xuôi tập trung tại làng Tỉnh Thôn (Xuân Hòa) do đồng chí Hồ Sỹ Nhân trực tiếp chỉ huy. Khi nhận được lệnh khởi nghĩa, lực lượng tự vệ vũ trang làng bắt hết những phần tử thân Nhật, đến các nhà Lý, Hương, chức dịch thu đồng triện (con dấu), giấy tờ sổ sách. Sáng ngày 19-8, tập trung quần chúng tại đình làng mít tinh chào mừng khởi nghĩa thành công, chính quyền về tay nhân dân.

Vào khoảng 23 giờ ngày 18-8-1945, hơn 200 tự vệ của các làng gươm giáo tuốt trần, hàng ngũ chỉnh tề tập trung tại Hương Thôn đợi lệnh khởi nghĩa. Trước đó, lệnh giới nghiêm đã được ban bổ. Người không phận sự và trẻ em không được ra đường, đặt vọng gác kiểm tra kỹ người qua lại.

Đúng 24 giờ ngày 18-8-1945, lệnh khởi nghĩa được ban hành. Tự vệ nhanh chóng bao vây khống chế các phần tử thân Nhật, hẹn các Lý dịch sáng ngày mai ra đình làng nộp đồng triện cùng địa bạ, khế ước. giấy tờ... và nghe Mặt trận Việt Minh tuyên bố các chủ trương chính sách của cách mạng.

Sáng 19-8, lực lượng tự vệ cùng đông đảo nhân dân tập trung tại đình làng chào mừng khởi nghĩa thành công, công bố đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh và danh sách các vị trong Ủy ban nhân dân lâm thời các làng, thu đồng triện, sổ sách, giấy tờ, khế ước của chế độ cũ, tuyên bố chính quyền đã về tay nhân dân.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn huyện Thọ Xuân diễn ra nhanh chóng và Việt Minh chiếm ưu thế tuyệt đối. Rạng sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, lực lượng tự vệ, du kích do đồng chí Hoàng Sỹ Oánh, Hoàng Văn Cài, Nguyễn Mậu Kiện đã nhanh chóng bao vây và tiến công phủ đường. Tri phủ Thọ Xuân là Phan Quốc Lương đã bàn giao ấn tín và đầu hàng vô điều kiện. Một đội tự vệ du kích do đồng chí Hoàng Văn Ngữ chỉ huy kết hợp với trung đội tự vệ do đồng chí Hồ Sĩ Nhân chỉ huy lên giải phóng sở Bang tá và đồn Bái Thượng. Dọc đường lượng tự vệ và du kích do đồng chí Nguyền Văn Anh phụ trách, tự vệ tổng Bái Đô kết hợp, đã nhanh chóng giải phóng sở Bang tá và đồn Bái Thượng. Trên đường về đến rừng Lim được nhân dân làm thịt bò, đồ xôi khao tự vệ chiến thắng'1

Sáng ngày 20-8-1945, lực lượng tự vệ và quần chúng nhân dân các làng ở Thọ Hải tấp nập kéo về phủ lỵ Thọ Xuân dự mít tinh chào mừng Cách mạng tháng Tám thành công và đón nhận ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân ra mắt quốc dân đồng bào.

Đồng chí Hoàng Sĩ Oánh, Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện đọc diễn văn chào mừng thành công của cuộc khởi nghĩa, công bố danh sách ủy ban nhân dân lâm thời huyện, đồng thời kêu gọi nhân dân trong huyện đoàn kết bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng chế độ mới.

Cuộc mít tinh đã hô vang những khẩu hiệu: Ủng hộ chính quyền cách mạng! Việt Nam hoàn toàn độc lập! Việt Nam muôn năm!

Ngày 19 và 20-8-1945, các đồng chí Nguyễn Văn Anh, Lê Văn Yến, Nguyễn Văn Ân đại diện cho Mặt trận Việt Minh huyện tổ chức khai hội ở các làng để mừng khởi nghĩa thành công, bổ sung lực lượng tự vệ, du kích, củng cố các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, phụ lão, nông dân, thiếu nhi...

Là một vùng quê có tiếng là trù phú, trên bến dưới thuyền, nửa quê nửa thị, cận lộ, cận giang, giao thông thủy bộ đều tiện lợi, lại có chợ lớn nổi tiếng trong vùng, vùng đất sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử, văn hóa... Gần 100 năm dưới sự cai trị hà khắc của thực dân phong kiến, người dân các làng Hương Nhượng, Mậu Thịnh Mỹ, làng Hón... cơm không đủ no, áo không đủ ấm, nền văn hóa dân tộc ngày một suy đồi lai căng, dân trí ngày càng ngu muội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, người dân Thọ Hải đứng lên làm cách mạng, giành chính quyền về tay nhân dân, người dân được tự do làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.

Cách mạng tháng Tám thành công là kết quả tất yếu của 15 năm Đảng bộ Thọ Xuân, vừa tổ chức lực lượng và lãnh đạo các cao trào cách mạng. Đó là quá trình đấu tranh kiên cường bền bỉ, đầy oanh liệt, đầy thông minh. sáng tạo của các tầng lớp nhân dân trong huyện. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chính là thắng lợi của các cao trào kế tiếp nhau mà các chiến sĩ cộng sản Thọ Xuân đã dày công tổ chức và lãnh đạo, trong đó Thọ Hải là một mắt xích nhỏ nối tiếp quá trình, góp phần thành công trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc của huyện nhà. Phong trào cách mạng ở Thọ Hải có từ rất sớm, từ cuối năm 1929, hai đảng viên Tân Việt là Trịnh Văn Ty (Cựu Khai) người làng Quân Bình (Hạnh Phúc) và Lê Huy Hoàng (giáo Huỳnh) người làng Vân Lộ (Thọ Nguyên) về làng Diên Hào (Thọ Lâm) bắt mối với ông Lê Văn Yến. Lưu Đình Dũng xây dựng phong trào, sau đó về làng Thịnh Mỹ giác ngộ cách mạng cho ông Nguyễn Bá Kỷ, Trịnh Quang Trai, ông Đỗ Bá Du, Đỗ Bá Năm ở Quần Lai. Và khi Đảng ta ra đời, phần lớn tổ chức Tân Việt hoạt động theo đường lối Đảng cộng sản.

Thời kỳ Hội Tương ái hữu (1936 - 1939) được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Mậu Sung, Trịnh Hữu Thường, các đồng chí Nguyễn Văn Anh, Trịnh Quang Trai, Nguyễn Bá Kỷ, Đào Trọng Tuyến, Đỗ Bá Du, Đỗ Bá Năm... đã vận động quần chúng nhân dân đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu bắt lính, đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, cải cách hương thôn... đã đem lại quyền lợi cho dân dân. Mặc dù do yếu tố khách quan nên các chiến sỹ tự vệ Thọ Hải là Nguyễn Văn Anh, Đỗ Bá Du, Nguyễn Văn Mầm không có mặt ở điểm tập kết Đa Ngọc để lên chiến khu Ngọc Trạo, mặc dù kẻ địch truy lùng, khủng bố gắt gao, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, các đồng chí đã dựa vào vỏ bọc của nhân dân. xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang ở các làng ngày một lớn mạnh, làm nòng cốt cho lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền sau này. Trong những năm cuộc đấu tranh cách mạng cam go ác liệt nhất, nhân dân Thọ Hải vẫn một lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, bất chấp tù tội, gông cùm xiềng xích, nhân dân Thọ Hải sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, nuôi giấu và bảo vệ cán bộ cách mạng, tiêu biểu như gia đình ông Nguyễn Bá Ký, Nguyễn Văn Anh, Nguyễn Quang Trai, Đỗ Thị Đích, Nguyễn Thị Bạn... Tất cả hòa chung vào dòng chảy lịch sử dân tộc, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do, no ấm hạnh phúc cho nhân dân.

Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân xã Thọ Hải cùng nhân dân cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Độc lập-Tự do thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, sẵn sàng kháng chiến bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương III

XÃ THỌ HẢI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ (1945 - 1975)

 

I. THỌ HẢI CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI, DIỆT GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945-1954)

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách do chế độ thực dân phong kiến để lại: Nền sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, nạn đói đầu năm 1945 làm chết hơn 2 triệu người, hơn 90% dân số mù chữ, ngân sách quốc trống rỗng. Trong khi đó, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa quân đội Đồng Minh kẻo vào miền Bắc nước ta, mang theo bọn Việt gian Quốc dân đảng, mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Ờ miền Nam, núp sau quân Đồng minh Anh, quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách thống trị lên các nước Đông Dương một lần nữa.

Tại Thanh Hóa, một trung đoàn Tưởng Giới Thạch kéo vào thị xã Thanh Hóa, chiếm đóng các vị trí trọng yếu, chúng uy hiếp chính quyền cách mạng non trẻ, đòi chính quyền ta cung cấp lương thực, thực phẩm cho chúng. Ngang ngược hơn, chúng đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng, chúng tung tiền giấy Quan Kim mất giá, mua vơ vét hàng hóa, gây thiệt hại cho nền kinh tế tỉnh ta vốn đã suy kiệt.

Vchính trị, chúng ép chính quyền cách mạng đưa tên phản động Quốc dân đảng Đỗ Văn giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cấp tỉnh. Nuôi dường và trang bị vũ khí quân trang, quân dụng cho bọn Quốc Dân đảng lập ra Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn) và cài cắm bọn phản động về các vùng giáo dân, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, xây dựng lực lượng đón quân đội Pháp vào xâm lược nước ta một lần nừa.

Nằm trong hoàn cảnh chung của cả nước, chính quyền cách mạng huyện Thọ xuân trong những ngày đâu mới thành lập cũng đứng trước những khó khăn thách thức tường chừng không thể vượt qua. Ngân sách trống rỗng, mọi hoạt động của chính quyền đều phải dựa vào các đoàn thể và sự đóng góp của nhân dân. Bộ máy chính quyển từ huyện xuống đến làng mới thành lập còn non tre. Lúng túng trong việc quản lý và điều hành xã hội.

Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, tình trạng thiếu lương thực diễn ra trầm trọng. 95% dân số mù chữ. Tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, hút thuốc phiện, mê tín dị đoan còn phổ biến.

Lợi dụng tình thế khó khăn, bọn phản cách mạng liên kết với bọn Quốc dân đảng công khai hoặc ngấm ngầm chống phá cách mạng. Chúng cho tay chân chui vào các tô chức đoàn thể của ta, lợi dụng danh nghĩa cách mạng xuyên tạc chủ trương đường lối cùa Đảng, Chính phủ, đe dọa uy hiếp nhân dân, tìm cách phá cơ sở cách mạng.

Những hoạt động của bọn phản cách mạng đã bị chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng ngăn chặn triệt phá. Âm mưu thủ đoạn của chúng bị vạch trần trước quần chúng nhân dân.

Sau khởi nghĩa thành công trên cả nước, ngày 3 tháng 9 năm 1945, một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Chủ tịch Hô Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Chính phủ và nêu 6 việc cấp bách phải làm ngay:

Một là: Phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo.

Hai là: Phát động phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là: Tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là: Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là: Bỏ ngay 3 thứ thuế: Thuế thân, thuế chợ và thuế đò. Cấm hút thuốc phiện.

Sáu là: Tuyến bố tự do tín ngưỡng và lương - giáo đoàn kết.

1. Thọ Hải trong nhưng năm đầu kháng chiên chống thực dân pháp xâm lược (1946 - 1950)

Thực hiện lời kêu gọi “chống giặc đói” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, ủy ban nhân dân lâm thời và Mặt trận Việt Minh huyện Thọ Xuân đã khẩn trương thành lập Ban Cứu đói, tổ chức quyên góp tiền bạc, thóc gạo giúp đỡ người bị đói, tổ chức vay lúa gạo của nhà giầu, phát động phong trào “Hù gạo tiết kiệm” để giúp đờ những gia đình đứt bữa.

Ở Thọ Hải, Mặt trận Việt Minh và ủy ban nhân dân lâm thời các làng kết hợp với các tổ chức đoàn thể cứu quốc như: Thanh niên, phụ nữ, nông dân... đến từng nhà còn thóc gạo ăn, vận động ủng hộ, cho vay thóc gạo, khoai giúp đỡ các gia đình đứt bừa với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách”. Không những giúp nhà nghèo trong làng bớt 5 khăn mà còn chu cấp lương thực, tiền bạc cho lực lượng tự vệ, du kích trong làng luyện tập, mua sắm vũ khí, phần cùng cả huyện ủng hộ nhân dân các huyện Quảng Xương, Hậu Lộc, Tĩnh Gia và các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh. Bên cạnh đó đã phát động toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, khai khẩn đất hoang, trước mắt là trồng cây màu ngắn ngày để chống đói như ngô, khoai, rau, đậu... Nhờ vậy chỉ một thời gian ngắn, những đồng ngô, bãi khoai, rau đậu, bầu bí đã phát triển xanh tốt, nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân dần đi vào ổn định.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, về mặt phân chia hành chính cơ bản chưa thay đổi: Tỉnh, huyện, tổng, làng, về chính quyền mỗi làng có một ủy ban nhân dân lâm thời gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên quản lý hành chính, củng cố và điều hành mọi công việc trong làng. Mặt trận Việt Minh trong làng gồm Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm và các tổ chức thành viên như: Thanh niên, phụ nữ, nông dân, phụ lão, thiếu niên cứu quốc.

Song song với phong trào “Diệt giặc đói” là phong trào “Diệt giặc dốt” được Mặt trận Việt Minh và chính quyền các làng phát động sâu rộng, lấy các tổ chức đoàn thế cứu quốc làm đầu tàu. Cuộc vận động nhanh chóng trở thành cao trào mạnh mẽ. Theo chủ trương của huyện, mỗi làng, xã thành lập một ban Bình dân học vụ là các thầy giáo, người có chữ với phương châm “người biết chữ dạy người chưa biết chữ”. Các lớp học được mở vào buổi trưa, buổi tối ở đình làng, chùa, nhà dân. Các gia đình tự nguyện cho mượn gỗ ván, cánh cửa để làm bảng, làng nào cũng có lớp học (làng nhỏ như Quần Lai cũng có 8 lớp, làng lớn như Thịnh Mỹ có 15 lớp). Nhiều hình thức thúc đẩy việc học như: đón chợ đoán chữ, người biết đọc đi vào cửa “vinh quang”, người không đọc được đi vào cửa “lạc hậu”. Nhiều người lăn lộn với phong trào như: ông Hoàng Văn Chức, ông Hữu, ông Huyến... Kết quả chỉ một thời gian ngắn, đa số nhân dân trong các làng đã biết đọc, biết viết.

Bên cạnh các lớp Bình dân học vụ, con em của các làng còn được đến các trường Tiểu học (từ lớp nhất đến lớp năm) ở Thọ Xuân, Bái Thượng, Quảng Thi (Xuân Thiên) để học.

Cùng với “Diệt giặc đói”, “giặc dốt”, sức khoẻ của nhân dân cũng được Mặt trận Việt Minh và chính quyền luôn đặc biệt quan tâm. Cùng với đội ngũ các thầy đông y, bắt mạch, kê đơn cho người bệnh uống thuốc Nam, thuốc Bắc, cuộc vận động “ăn chín uống sôi”, “nằm màn”, “vệ sinh cá nhân”, “làm vệ sinh thôn xóm” được phát động rầm rộ, đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi các dịch bệnh phát sinh như đau mắt đỏ, tả lỵ, đậu mùa... nâng cao sức khoẻ cho nhân dân.

Các cuộc vận động chống mê tín, dị đoan, các tập tục lạc hậu, vốn được thực hiện từ những năm 1936 - 1939 nay khơi dậy. Chỉ riêng làng Thịnh Mỹ, nơi có chợ Đường đã có 15 bàn đèn hút thuốc phiện, một đại lý bán Phông - ten, nhiều sòng bạc, rượu chè cùng nạn mê tín, dị đoan đã bị chính quyền cấm hẳn. Những tục lệ tế lễ được giảm bớt, chỉ giữ lệ, cưới xin, ma chay không còn nặng nề, được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng, mọi người đều được bình đẳng, không  phân biệt tôn giáo, dân bản xứ, người ngụ cư. An ninh trật tự làng, xã được bảo đảm.

Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch về tổ chức quyên góp “Tuần lễ  vàng”, “Tuần lễ đồng” để xây dựng “Quỹ độc lập”, dưới sự chỉ đạo của chính quyền và Mặt trận Việt Minh huyện, Ban vận động của các làng xã Thọ Hải đến từng gia đình tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của cuộc vận động là: “Quyết bảo vệ giữ vững nền độc lập non trẻ". Nhiều gia đình góp cả đôi khuyên tai vàng, nồi đồng, xanh đồng; có gia đình đóng góp cả đồ thờ bằng đồng. Chỉ trong 2 tuần, các làng trong xã Bắc Sơn (Thọ Lâm, Thọ Diên, Thọ Hải ngày nay) đã đóng góp được gần 3 lạng vàng và hơn 700 kg đồng. Cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập" thành công là biểu hiện tinh thần thiết tha yêu nước và quyết tâm giữ vững nền độc lập của nhân dân Thọ Xuân nói chung và nhân dân xã Thọ Hải nói riêng.

Để đảm bảo cho sự nghiệp chống thù trong giặc ngoài, diệt “giặc đói”, “giặc dốt” thắng lợi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thanh Hóa, đầu tháng 10 năm 1945, Mặt trận Việt Minh huyện Thọ Xuân, hội nghị thành lập Đảng bộ huyện được tiến hành.

Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm tình hình trong huyện từ sau ngày khởi nghĩa và đề ra những chủ trương công tác mới nhằm tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và củng cố chính quyền từ huyện xuống cơ sở, tập trung chống giặc đói, giặc dốt và chuẩn bị sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, phát triển đảng viên và chi bộ cơ sở, phân công cán bộ phụ trách các mặt công tác quan trọng.

Hội nghị đã tiến hành bầu Huyện ủy lâm thời gồm 5 đồng chí: Hoàng Sĩ Oánh, Lê Xuân Tại, Hồ Sĩ Nhân, Dương Văn Du và Hoàng Văn Ngữ. Đồng chí Dương Văn Du được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Việc thành lập chi bộ và Huyện ủy lâm thời dựa trên cơ sở các chi bộ sàn thời kỳ 1930 - 1945, đã tạo ra sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đáp ứng nhu cầu phát triển của cách mạng huyện Thọ Xuân.

Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động và hiệu lực hoạt động của chính quyền nhân dân, cuối năm 1945, theo sắc lệnh số 63 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo kiện toàn bộ máy hành chính các cấp từ huyện xuống cơ sở, bãi bỏ các đơn vị hành chính cấp tổng, lập đơn vị hành chính cấp xã bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên, làm nhiệm vụ của một cấp chính quyền cơ sở, có chức năng tổ chức, quản lý và điều hành xã hội trên địa bàn xã và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ.

Tổng Diên Hào được chia làm 3 xã: Bắc Sơn, Đô Lương và Thái Hòa. Xã Bắc Sơn gồm 11 làng trại: Diên Hào, Hiền Hào, Tân Lâm, Tân Thành, Trái Dùn, Quần Ngọc, Đăng Lâu, Tân Phúc, làng Đèn, làng Hương, Hương Thôn, Mậu Thịnh và làng Hải Trạch, do ông Lưu Đình Dùng làm Chủ tịch, ông Cao Văn Uy (Thịnh Mỹ) làm Phó Chủ tịch, ủy viên thư ký là ông Ngô Đình cẩn (Thịnh Mỹ); ông Trần Văn Nhâm (Hải Trạch) phụ trách quân sự và một số ủy viên khác. Xã Thái Hòa gồm các làng xã Xuân Hòa, xã Xuân Trường và thị trấn Thọ Xuân ngày nay. Xã Đô Lương (sau đổi tên là xã Thọ Sơn) gồm các làng Quần Đội, Quần Lai, làng Phấn Thôn, làng Hải Lịch, làng Bún, làng Hón... do ông Đỗ Ngọc Tường làm Chủ tịch; ông An Văn Ngột làm Phó Chủ tịch và các ủy viên khác.

Cùng với việc củng cố chính quyền, các đoàn thể cứu quốc từ huyện xuống xã cũng được kiện toàn, mở rộng. Các tổ chức đoàn thể xây dựng chương trình hoạt động cụ thể, phối hợp với nhiệm vụ cách mạng, tình hình thực tế ở địa phương để hoạt động.

Ủy ban nhân dân xã ra đời đã củng cố thêm một bước cho chính quyền cách mạng vững mạnh, đồng thời mở rộng quyền tự do dân chủ của nhân dân và quản lý xã hội theo pháp luật.

Để ủng hộ đồng bào, chiến sỹ Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo các trong đó có Bắc Sơn, Đô Lương tổ chức mít tinh ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến, phản đối thực dân xâm lược. Cuối tháng 10-1945, huyện Thọ Xuân tổ chức tiễn đưa những thanh niên ưu tú lên đường Nam tiến, xã Bắc Sơn và Đô Lương có các ông: Trần Văn Quý, Trịnh Đình Nùng, Trương Quốc Lương, Phạm Đình Tơn và Trần Hữu Đương(l). Đặc biệt có bà Trương Thị Mỹ Đô là một trong 6 nữ chiến sỹ của Thanh Hóa đi Nam tiến.

Nhằm nâng cao kiến thức quân sự như bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê và phương pháp tác chiến trên địa bàn nông thôn cho lực lượng tự vệ, dân quân du kích các xã: Bắc Sơn, Đô Lương đã cử cán bộ từ Tiểu đội trưởng đến Đại đội trưởng về làng Hội Hiền (xã Tây Hồ) dự lớp tập huấn ngắn ngày. Giáo viên quân sự là ông Cao Thanh Tùng và ông Đội Huấn, do đồng chí Hoàng Văn Ngữ, ủy viên quân sự trong ủy ban nhân dân lâm thời huyện Thọ Xuân phụ trách. Từ lớp tập huấn này, trình độ chiến đấu và chỉ huy tác chiến của lực lượng vũ trang các xã đã nâng cao rõ rệt.

Từ đầu tháng 12-1945, Huyện ủy, ủy ban nhân dân lâm thời huyện và các tổ chức đoàn thể quần chúng từ huyện đến xã đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa đầu tiên, làm cho mọi người hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thể lệ bầu cử Quốc hội.

Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, trước ngày bầu cử Mặt trận Việt Minh và chính quyền xã Bắc Sơn tổ chức mít tinh ủng hộ chính quyền cụ Hồ Chí Minh.

Ngày 06-01-1946, tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I được tiến hành như một ngày hội lớn của dân tộc. Tại các điểm bầu cử như ở Hương Thôn, làng Bún, Mậu Thịnh, Diên Hào biểu ngữ, cờ hoa lộng lẫy. Từ rất sớm, nhân dân đã đến nơi bỏ phiếu, tự lựa chọn những người xứng đáng bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước với ý thức “chọn mặt gửi vàng”; Có 98% số cử tri đi bỏ phiếu. Khu vực huyện Thọ Xuân đồng chí Hoàng Sỹ Oánh trúng cử với số phiếu cao nhất.

Tháng 4-1946, sau bầu cử Hội đồng nhân dân hai cấp tỉnh và xã. Hội đồng, nhân dân bầu ra ủy ban hành chính các cấp, ủy ban hành chính xã Bắc Sơn do ông Trần Hữu Khuếch làm Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Ky làm Phó Chủ tịch và các ủy viên khác.

Đáp ứng nhu cầu mới của cách mạng, theo ánh sáng của Hồ Chủ tịch, nhằm đoàn kết mọi đảng phái, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân, Hội liên hiệp quốc dân thành lập, gọi tắt là Hội Liên Việt. Mặt trận Việt Minh là thành viên.

Tháng 6-1946, Hội Liên Việt xã Bắc Sơn ra đời, hàng ngàn hội viên tham gia. Ông Lưu Công Năng cử làm Chủ tịch. Sự ra đời của Hội Liên Việt không 5 tạo ra sự đoàn kết trong nhân dân, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Nhà nước dân chủ non trẻ, còn là sức mạnh tổng hợp để nhân dân xã Bắc Sơn  cùng nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Thọ Hải cùng nhân dân cả nước làm nên sự kiện lịch sử hào hùng, oanh liệt và diệu kỳ.

Nhà nước dân chủ Việt Nam ra đời trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Thù trong, giặc ngoài vây hãm. Giặc đói, giặc dốt hoành hành. Sản xuất đình đốn, ngân quỹ quốc gia trống rỗng... Bằng đường lối chiến lược, sách lược khôn khéo, linh hoạt, cương quyết, táo bạo, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức lãnh đạo dân tộc Việt Nam phá thế vây hãm của kẻ thù, bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng, chuẩn bị điều kiện cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Đầu tháng 12-1946, sau khi đánh chiếm được Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, thực dân Pháp thẳng tay gạt bỏ mọi khả năng thương lượng hòa bình thực hiện kế hoạch xâm lược Đông Dương bằng vũ lực. Thực dân Pháp đã bắt buộc nhân dân ta phải đứng lên cầm vũ khí bảo vệ nền độc lập, tự do mà nhân dân ta mới giành được.

Để bảo vệ Tổ quốc, ngày 18-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay là Hà Nội) quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên quy mô toàn quốc.

Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”. Người nói:

 "Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ..."

Thực hiện lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, ủy ban hành chính huyện Thọ Xuân, nhân dân trong huyện nói chung, nhân dân xã Bắc Sơn nói riêng đã nhất tề đứng lên sẵn sàng đánh đuổi thực dân Pháp.

Đúng một tuần sau ngày toàn quốc kháng chiến, ngày 26-12-1946, một sự kiện chính trị lớn đã diễn ra tại nhà đồng chí Lê Văn Yến làng Diên Hào. Hội nghị thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của xã Bắc Sơn được tiến hành. Đồng chí Lê Xuân Tại thay mặt cho huyện ủy, đồng chí Nguyễn Mậu Sung thay mặt cho ủy ban hành chính huyện về dự và chỉ đạo. Chi bộ Đảng xã Bắc Sơn có 6 đảng viên, gồm các đồng chí: Lê Văn Yến, Lưu Đình Dũng, Lưu Công Năng, Nguyễn Văn Anh, Ngô Đình Cẩn và Lưu Đình Sinh. Đồng chí Lê Văn Yến bầu làm Bí thư chi bộ.

Hội nghị tập trung kiểm điểm công tác từ khi khởi nghĩa thành công đến thời điểm toàn quốc kháng chiến. Hội nghị đánh giá: Chính quyền cách mạng được củng cố và ngày càng vững mạnh, các tổ chức đoàn thể thành viên của Mặt trận Việt Minh như thanh niên, phụ nữ, nông dân, phụ lão, thiếu nhi được củng cố, kiện toàn, hoạt động có hiệu quả; tình làng nghĩa xóm gắn bó keo sơn. Lực lượng tự vệ, du kích được biên chế thành trung đội, tiểu đội, thường xuyên luyện tập, mua sắm vũ khi sẵn sàng chiến đấu.

Đời sống dân sinh được cải thiện, nạn đói được chấm dứt, nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, ủng hộ tiền, gạo, thực phẩm để tự vệ, du kích luyện tập canh phòng.

Các hủ tục lạc hậu như ma chay, tế lễ, bói toán, tệ cờ bạc, rượu chè... được hạn chế, không còn cảnh bàn đèn thuốc phiện bán công khai, quyền dân chủ được phát huy.

Hội nghị đặt ra một số nhiệm vụ trước mắt là: Tuyên truyền để mọi người hiểu rõ đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng, thấm nhuần sâu sắc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. Tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, kiến quốc. Tiếp tục phát động phong trào “Bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ. Phát động nhân dân thực hiện ăn chín, uống sôi, thực hiện vệ sinh cá nhân, làng xóm; vận động, giúp đỡ thanh niên lên đường tòng quân đánh giặc. Kêu gọi nhân dân đề cao cảnh giác, ngăn chặn kịp thời và đập tan mọi âm mưu đánh phá chính quyền cách mạng của bọn Việt gian động Quốc dân đảng.

Ngày 6-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi toàn dân “Tiêu thổ kháng chiến”. Ban tiêu thổ kháng chiến được thành lập từ huyện đến xã. Tự vệ dân xã Bắc Sơn cùng với lực lượng các xã, tiến hành tiêu thổ một số nhà tầng, nhà kiên cố ở phố Thọ Xuân, phố Đầm, Bái Thượng, Tứ Trụ... đồng thời cùng với nhân dân rào làng chiến đấu, đào giao thông hào, cất giấu lương thực, đào hào, đắp ụ trên đường 47 (nay là đường 157) để ngăn chặn bước tiến bằng cơ giới của địch, đặt vọng gác, thực hiện phòng gian bảo mật...

Đầu năm 1947, ủy ban kháng chiến các cấp được  thành lập để trực tiếp tổ chức chỉ đạo nhân dân tham gia kháng chiến.

Ủy ban kháng chiến xã Bắc Sơn ra đời do ông Ngô Đình Cới làm Chủ tịch và một số ủy viên với chức năng huy động nhân lực, vật lực cho kháng chiến, ủy ban hành chính vẫn được duy trì thực hiện chức năng quản lý kinh tế, văn hóa xã hội.

Ngày 20-2-1947, một sự kiện lịch sử trọng đại đã diễn ra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm Thanh Hóa, trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đảng bộ, nhân dân tỉnh nhà xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu: Căn cứ chiến lược của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người chỉ thị:

“ Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu phải làm sao cho mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự phải là kiểu mẫu, làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu...”

Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, Chi bộ và nhân dân xã Bắc Sơn đẩy mạnh nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Phong trào thi đua yêu nước được nhân dân trong xã tích cực tham gia. Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân trong xã no đủ, tích cực đóng góp cho kháng chiến, nuôi dân quân, tự vệ địa phương, đóng góp hàng ngàn cây tre, luồng, nứa, gỗ để xây dựng làng chiên đấu.

Trước đó, vào tháng 01-1947, hàng trăm thanh niên cứu quốc của xã Bắc Sơn cùng với 2.000 thanh niên cứu quốc trong huyện về rừng Lam Kinh dự hội trại. Tại đền thờ, thanh niên đã tuyên thệ trước anh linh anh hùng dân tộc Lê Lợi, tình nguyện gia nhập Vệ quôc đoàn, bảo vệ quê hương, đất nước.

Thực hiện chủ trương của Hội Phụ nữ quân khu IV và Hội phụ nữ tỉnh Thanh Hóa, tháng 7-1947, Hội mẹ chiến sĩ Thọ Xuân được thành lập và sau đó hội 51 mẹ chiến sĩ xã Bắc Sơn ra đời do mẹ Vang làm Hội trưởng, suốt cả cuộc kháng chiến, Hội mẹ chiến sĩ xã đã đi đầu trong các cuộc vận động nhân dân ủng hộ bộ đội, thương binh về làng nuôi dưỡng, động viên chị em phụ nữ may vá quần áo cho chiến sĩ, vận động nhân dân " quà bánh, thuốc men chăm sóc thương bệnh binh, động viên chị em phụ nữ lấy chồng là thương binh... tiêu biểu như mẹ Vang, mẹ Cả, mẹ Nghiêm.

Tròn một năm sau khi chi bộ Đảng Bắc Sơn được thành lập, chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân trong xã thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, toàn dân ủng hộ kháng chiến. Hàng chục thanh niên lên đường tòng quân đánh giặc. Nền kinh tế trong xã nhanh chóng ổn định và phát triển. Chi bộ Đảng Bắc Sơn được Huyện ủy Thọ Xuân công nhận là Chi bộ chính thức.

Tháng 12-1947, thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và tỉnh đội dân quân Thanh Hóa, cơ quan Huyện đội Thọ Xuân được thành lập, do đồng chí Lê Cần làm Huyện đội trưởng. Cơ quan quân sự huyện có nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền vạch kế hoạch phòng, xây dựng, huấn luyện cho lực lượng dân quân du kích; chỉ đạo tác chiến trên địa bàn. Đến đầu năm 1948, xã Bắc Sơn mỗi làng có 1 trung đội dân quân tự vệ. Cả xã có 1 Đại đội du kích gồm 3 trung đội. Thực hiện phong trào “luyện quân lập công”, nâng cao trình độ quân sự như: Học tập đường lối kháng chiến của Đảng; 10 lời thề và 12 điều kỷ luật của quân đội nhân dân Việt Nam; huấn luyện chiến lược đánh du kích, kỹ thuật bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn xây dựng làng chiến đấu.

Nhằm đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng vả củng cố chính quyền, tháng 3 năm 1948, Huyện ủy chỉ đạo hợp nhất hai ủy ban, ủy ban kháng chiến và ủy ban hành chính các cấp thành ủy ban Kháng chiến - Hành chính.

Trước đó, từ tháng 6-1947, hai làng Quần Đội và Quần Lai tháp nhập về xã Bắc Sơn. Đầu năm 1948, xã Bắc Sơn đổi tên thành xã Thọ Hải.

Ủy ban kháng chiến hành chính xã Thọ Hải do ông Trần Hữu Khuếch làm Chủ tịch. Cùng với việc hợp nhất hai ủy ban và xã Thọ Hải ra đời, các tổ chức đoàn thể cũng được kiện toàn, củng cố. Hội Phụ lão và Hội Nông dân cứu quốc, tuy thành lập sau nhưng đã tích cực hoạt động, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia công tác mạng.

Thực hiện nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ nhất (tháng 01-1948, tại thôn Tân An, Xuân Hòa) đề ra, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng các mặt công tác, xóa điểm trắng cơ sở Đảng, xã nào cũng có chi bộ Đảng lãnh đạo, phát triển đảng viên.

Thực hiện mệnh lệnh của cấp trên chi bộ đã đưa sự nghiệp cao cả của Đảng, từ 6 đảng viên ban đầu, đến năm 1949 đã có 45 đảng viên, xã Thọ Hải (xã Thọ Hải và Thọ Lâm ngày nay). Các đảng viên được phân công các cương vị chủ chốt trong chính quyền và các tổ chức đoàn thể từ xã xuống đến các làng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ, nhân dân trong xã tích cực tham gia kháng chiến kiến quốc, hoàn thành xuất sắc các phong trào cách mạng như: ủng hộ quỹ xây dựng Đảng, mua công phiếu kháng chiến, phong trào ủng hộ lúa khao quân...

Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 đã mở ra một cục diện mới cho cách mạng Việt Nam. Thực dân Pháp không thực hiện được chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh“, buộc phải tiến hành bình định vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và đánh phá vùng tự do ác liệt hơn.

Tại tỉnh Thanh Hóa, từ tháng 7 đến tháng 8-1947, tàu chiến Pháp ngoài biển thả biệt kích vào cửa biển Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, đốt phá cướp đoạt tài sản của nhân dân. Máy bay địch ném bom xuống Vạn Hi (Thiệu Hóa), Bái Thượng (Thọ Xuân) và khu vực thị xã Thanh Hóa.

Ở miền Tây, đầu tháng 5-1947, giặc chiếm đóng Hồi Xuân (Quan Hóa). Ngày 7-5, địch chiếm đóng Cổ Lũng (Bá Thước), phía Tây Nam địch chiếm xã Yên Khương (Lang Chánh) và xã Bát Mọt huyện Thường Xuân, lập hành lang Đông - Tây, chia cắt miền Tây với đồng bằng Thanh Hóa, tổ chức các đảng phái phản động mưu đồ thành lập Xứ Mường tự trị.

Trung đoàn 77, bộ đội địa phương Thanh Hóa cùng hai đại đội cầm Bá Thước, Hà Văn Mao kết hợp với dân quân du kích các huyện miền núi tổ chức hàng chục trậr. đánh lớn nhỏ, tiêu hao nhiều sinh lực địch, thu nhiêu vũ khí quân trang, đập tan hành lang Đông - Tây, xoá sổ các tổ chức phản động tay sai của thực dân Pháp. Miền Tây Thanh Hóa được hoàn toàn giải phóng.

Cùng với chiến thắng miền Tây, lực lượng vũ trang các huyện ven biển đã đập tan nhiều toán biệt kích của địch, buộc chúng phải lên tầu chiến bỏ chạy. Tiêu diệt, bắt gọn các tổ chức phản động “Mặt trận quốc gia thống nhất”, “Mặt trận giải phóng dân tộc” ngăn chặn thời cuộc bạo loạn ở Mậu Thôn (Nông Cống), bắt hàng trăm tên.

Nhằm động viên nhân dân kháng chiến kiến quốc, ngày 14-7-1949, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh giảm tô 25%. Huyện ủy Thọ Xuân thành lập Ban chỉ đạo các cấp để thực hiện và thực hiện thí điểm ở ấp Hàn Thước có trên một trăm mẫu ruộng cấy lúa (phần lớn tá điền là người Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam). Giảm tô ở ấp Hàn Thước thắng lợi đã gây tiếng vang lớn, tạo điều kiện cho nông dân trong huyện đấu tranh buộc các chủ điền phải giảm tô 25%. Uy thế của địa chủ, cường hào trong xã bị hạ thấp. Nông dân phấn khởi tích cực tăng gia sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm cho kháng chiến.

2. Thọ Hải tăng cường tiêm lưc hậu phương, chi viện cho kháng chiên chống thưc dân pháp thăng lợi (1950-1954)

Năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng. Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, tạo điều kiện cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác, các tổ chức quốc tế lần lượt công nhận Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi này đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ngày một phát triển, thực dân Pháp ngày một bị động, lúng túng. Đế quốc Mỹ giúp Pháp can thiệp vào Đông Dương.

Nhằm kiểm soát khu vực biên giới, nối liền cách mạng Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới, Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới. Tháng 9 năm 1950, ta giải phóng Đông Khê. Tháng 10 năm 1950, ta bắt gọn địch ở Cao Bằng. Chiến dịch Biên giới thắng lợi mở ra bước ngoặt, đưa cuộc kháng chiến của ta từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy.

Để chi viện cho tiền tuyến, trong hai năm 1950 - 1951, xã Thọ Hải đã có hơn mười người vào bộ đội, trong đó có 5 người là đảng viên. Năm 1951-1952, phục vụ chiến dịch Quang Trung (mặt trận Hà - Nam - Ninh), xã Thọ Hải điều động nhiều đợt dân công phục vụ chiến dịch, trong đó có 150 người dân công dài hạn (từ 15 ngày đến một tháng), góp phần cùng dân công cả huyện vận chuyển 5.000 tấn thóc gạo ra Khu III (Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định).

Vsản xuất nông nghiệp: Mặc dù địa bàn xã rất rộng, cán bộ, đảng viên phân công nhau xuống từng xóm động viên nhân dân gieo trồng hết diện tích, chăm sóc hoa mầu... nhờ vậy hai vụ lúa chiêm mùa bội thu, nhân dân trong xã phấn khởi, đóng góp cho kháng chiến hàng chục tấn thóc, tấn thực phẩm.

Công tác giáo dục được chi bộ và chính quyền hết sức quan tâm. Xã đã có trường cấp I gồm 4 khối lớp, trường cấp II (tồn tại trong hai năm học 1950 - 1951 và 1951 - 1952). Công tác Bình dân học vụ vẫn được duy trì, đã có hai thôn Đăng Lâu và Quần Ngọc và hai xóm của làng Diên Hào xóa được nạn mù chữ.

Công tác thông tin tuyên truyền được chi bộ và chính quyền quan tâm. Mỗi xóm dựng một chòi cao để phát thanh vào hai buổi trưa và tối. Tuyên truyền đến nhân dân các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, tin chiến thắng của quân và dân ta ở các mặt trận, công tác kháng chiến kiến quốc ở địa phương. Công tác an ninh trật tự được bảo đảm, nhất là việc phòng gian bảo mật. Duy trì các trạm gác trên các trục đường vào làng. Lực lượng dân quân du kích thường xuyên luyện tập sẵn sàng chiến đâu.

Công tác vệ sinh phòng bệnh, ăn chín uống sôi, giữ gìn vệ sinh làng xóm được nhân dân đồng tình ủng hộ. Nhà hộ sinh và mạng lưới tuyên truyền viên y tế xuống tận đến các xóm.

Vcông tác xây dựng Đảng, trong 3 năm 1949 - 1952, chi bộ Thọ Hải kết nạp được 37 đảng viên, đưa sổ đảng viên trong chi bộ lên 69 đồng chí (chưa kể các đảng viên lên đường nhập ngũ, các đảng viên trên điều đi thoát ly). Thời điểm này, đồng chí Lưu Đình Tình làm Bí thư Chi bộ.

Để tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến của dân tộc giành thắng lợi hoàn toàn, tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng họp tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ vào tình hình đặc điểm của mỗi nước, Đại hội quyết định chia Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba đảng: Đảng Lao Động Việt Nam, Đảng nhân dân cách mạng Lào và Đảng nhân dân cách mạng Căm Pu Chia. Tháng 3 năm 1951, Huyện ủy Thọ Xuân chỉ đạo hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thành Mặt trận Liên Viêt.

Tháng 3-1951, Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai. Huyện ủy Thọ Xuân tổ chức mít tinh chào mừng sự kiện trọng đại này và tuyên bố trước quốc dân đồng bào, sự lãnh đạo công khai, toàn diện và trực tiếp của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Thực hiện sắc lệnh thuế nông nghiệp của Chính phủ từ tháng 8 đến tháng 10-1951, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Đảng, chính quyền xã Thọ Hải đã tổ chức cho nhân dân học tập chính sách thuế nông nghiệp, hoàn thành việc chia mảnh, định hạng, lập sổ bộ và tính thuế cho từng hộ nông dân, góp phần cùng cả huyện hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu thuế nông nghiệp năm 1951 - 1952. Thọ Xuân vinh dự được ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen. Cùng với việc hoàn thành xuất sắc thuế nông nghiệp (thu đúng, thu đủ, thu nhanh), dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, chi bộ Đảng Thọ Hải tiến hành củng cố tổ chức, phát triển lực lượng quân sự theo hướng “tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”.

Bị thất bại nặng nề trên các chiến trường, thực dân Pháp sử dụng máy bay ném bom, bắn phá vào hậu phương nhằm hủy diệt tiềm lực kháng chiến, lung lay ý chí chiến đấu của nhân dân ta thực dân Pháp đã ném bom xuống làng Trung Lập (Xuân Lập) làm chết 32 người, hàng trăm nóc nhà bị phã hủy; ném bom bắn phá xã Xuân Hòa làm chết 36 người,13 người bị thương , gần 100 ngôi nhà bị phá hủy. Máy bay Pháp ném bom xuống làng Hương (Thọ Hải) làm 2 cán bộ trại tù hy sinh và bắn phá xưởng in Trần Phú.

Năm 1952, máy bay Pháp ném bom đập Bái Thượng, làm hỏng nguồn nước tưới cho hơn 50 ngàn ha đất lúa 2 vụ của Thanh Hóa, đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân, làm giảm sức chi viện cho chiến trường. Để khắc phục tình hình khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Chi bộ Đảng cùng chính quyền xã Thọ Hải đã huy động hàng ngàn ngày công đào đắp ao, hồ, đào giếng dự trữ nguồn nước cấy lúa, đồng thời chuyển chân đất hai vụ lúa sang một vụ màu, một vụ lúa; áp dụng biện pháp thâm canh để tăng năng suất, đáp ứng nhu cầu đảm bảo đời sống cho nhân dân và đóng góp cho kháng chiến.

Năm 1952, bọn phản động liên kết với nhau hòng phá hoại kinh tế. Một số tên lọt vào chính quyền các cấp, kích động nhân dân chống lại đường lối kháng chiến, chống lại chính sách thuế nông nghiệp, chính sách huy động dân công, giảm tô, giảm tức. Ở xã Thọ Hải chúng thành lập hai tổ chức phản động có tên là “Đại Việt” và “Bão An Đoàn”.

Tại địa phương, một số đảng viên Đảng Dân chủ và hội viên Phật giáo có nhiều ruộng đất liên kết với nhau, ngoan cố không nộp thuế nông nghiệp.

Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy Thanh Hóa và sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, chi bộ và chính quyền xã Thọ Hải tổ chức cho nhân dân đấu tranh chính trị. Trước chính quyền cách mạng và áp lực của quần chúng nhân dân, bọn chống đối đã phải khuất phục nộp đầy đủ. Bọn phản động “Đại Việt”, “Bảo an Đoàn" và tổ chức “Liên tôn diệt cộng” đã bị chính quyền bắt, tòa án nhân dân tỉnh xử tù, một số tên được giáo dục tại địa phương.

Đấu tranh chính trị ở xã Thọ Hải thắng lợi đã thúc đẩy nhân dân trong xã hăng hái sản xuất, đóng góp tích cực sức người, sức của cho kháng chiến. Cuối năm 1952. Thọ Hải điều động 300 dân công hỏa tuyến, đợt dài 4 tháng, đợt ngắn 1 tháng, chuyển gạo phục vụ chiến dịch Thượng Lào.

Đầu năm 1953, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Huyện ủy, ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Thọ Xuân tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giảm tô triệt để và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cải cách ruộng đất. Kết quả trong xã Thọ Hải có 102 hộ được giảm tô bằng 51.750kg thóc. Giảm tô thắng lợi uy tín và trình độ chính trị của nông dân được nâng lên, giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đô từng bước.

Ngày 19-12-1953, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa ra hoạt động công khai, sau đó chi bộ Đảng Lao Động xã Thọ Hải tổ chức ra mắt hoạt động công khai trước toàn thể nhân dân trong xã. Đồng chí ... và đồng chí.. được chi bộ cử đại diện cho chi bộ ra mắt nhân dân toàn trong xã tại đình làng Hương Nhượng.

Cũng vào cuối năm 1953, kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến, gần 100 thanh niên xã Thọ Hải vào lực lượng niên xung phong, thanh niên tình nguyện lên đường phục vụ tiền tuyến.

Vào thời điểm này, địa phương thiếu nguồn lao động sản xuất vì phần lớn nguồn lao động chính trong xã đã vào bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, khắc phục tình trạng thiếu lao động, chi bộ đã vận động nhân dân thực hiện mô hình tổ đổi công để giúp nhau gieo cấy, thu hoạch kịp thời vụ. Phát động nhân dân đưa cây khoai lang vào trồng trên đất một lúa; áp dụng phương pháp thâm canh tăng năng suất, ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành các chỉ tiêu Nhà nước giao, góp phần cùng cả nước kháng chiến chống Pháp thắng lợi.

Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp dân tộc ta kéo dài 9 năm (1946 - 1954), trải qua các thời kỳ “cầm cự”, “phòng ngự” và “tổng tiến công” đã kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa "Chín năm là một Điện Biên nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng" Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ miền Nam tạm thời bị chia cắt, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Trong kháng chiến chống Pháp, (tính thời kỳ xã lớn) xã Thọ Hải có 150 người vào bộ đội, thanh niên xung phong và phục vụ trên các lĩnh vực khác; 1.145 người là dân công hỏa tuyến; có ... thương binh,... liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường; ủng hộ qũy độc lập hơn hai lạng vàng, 10kg bạc, 600kg đồng. 130.744 đồng (tiền tài chính Việt Nam).

Là một xã có hai tuyến giao thông thủy bộ đi qua: Quốc lộ 47, hai tuyến giao thông thủy là sông Chu và sông nông giang Bái Thượng, xã Thọ Hải được Nhà nước đặt nhiều kho tàng như kho lúa, kho muối...

Hưởng ứng phong trào huy động nhân tài, vật lực, phục vụ tiền tuyến của Đảng, nhân dân xã Thọ Hải đã dấy lên tinh thần thi đua sôi nổi, hăng hái làm nhiệm vụ dân công, vận tải, tăng gia sản xuất, tòng quân giết giặc. Vượt qua bao đèo cao, suối sâu rồi gió rét, mưa ngàn nhưng các đoàn dân công của Thọ Hải vẫn quyết tâm làm tròn nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc. Trên các bức tường, đình, đền, chùa, nhà dân... với khẩu hiệu và tin tức cổ động, phục vụ chiến trường được treo khắp nơi. Khí thế cách mạng sôi nổi, hào hùng chưa từng thấy đã diễn ra trên quê hương Thọ Hải. 

Ngày 13-3-1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm kiên cường chiến đấu, ngày 7-5-1954, quân và dân ta đã làm nên kỳ tích “chấn động địa cầu”, đánh tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nơi mà thực dân Pháp đã tuyên bố với cả thế giới là “pháo đài bất khả xâm phạm". Tin vui lan truyền trong cả nước và nhanh chóng tới các làng bản, chòm xóm trên địa bàn Thọ Hải, làm tăng thêm sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng. 

Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương được ký kết. Theo quy định của hiệp định, quân đội hai bên phải rút về vị trí tập kết ở hai miền Nam - Bắc. Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển mới của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Chính phủ Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. 

Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng có lợi cho cách mạng, phong trào cách mạng xã Thọ Hải có sự chuyển biến, đi vào chiều sâu và đạt kết quả rõ rệt. Đa số cán bộ, đảng viên đã tỏ rõ bản lĩnh của người cộng sản, quyết tâm bám đất, bám dân, vừa phát triển lực lượng, vừa đấu tranh với kẻ địch trên mọi lĩnh vực, đưa phong trào kháng chiến ở xã Thọ Hải từng bước phát triển và đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa. 

Dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, nhân dân Thọ Hải đã được sống tự do trong một nước độc lập, dưới chế độ dân chủ. Giữa những ngày giáp hạt, những lúc thiên tai tuy vẫn còn người đói tạm thời nhưng nhờ có Đảng, có chính quyền, đoàn thể và sự đùm bọc tương trợ lẫn nhau của mọi người nên đã nhanh chóng vượt qua khó khăn. Đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân so với trước cách mạng đã có sự chuyển biến nhảy vọt. Mọi người được học hành, được chữa bệnh, được tham gia các hoạt động văn hóa - xã hội. 

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đầy gian khổ xã Thọ Hải có hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, hàng nghìn lượt người tham gia thanh niên xung phong và dân công phục vụ các chiến dịch Đông - Xuân năm 1953-1954 (chiến dịch Thượng Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ). Ngoài ra, trong khắp các làng Thọ Hải đều có thanh niên nam nữ tham gia vận chuyển, bốc dở hàng hóa, say lúa giã gạo, sửa chữa kho tàng, đường giao thông, nuôi dưỡng bộ đội. Hàng chục người con của Thọ Hải đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, Bằng khen, Giấy khen và nhiều danh hiệu cao quý khác. 

Từ kinh nghiệm thực tiễn cùng với những thành tích đã đạt được trong những năm tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp là nền móng quan trọng và vững chắc để Chi bộ Đảng Thọ Hải vững vàng bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ cùng cả nước xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà (1954-1975). Đó là những kinh nghiệm thực tiễn vô cùng quý báu để nhân dân Thọ Hải bước vào gia đoạn mới, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và cùng nhân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Trong niềm vui miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cán bộ, đảng viên và nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chuẩn bị tinh thần, nghị lực cho một mặt trận mới: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

II. ĐẢNG BỘ THỌ HẢI XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 - 1975)

1. Nhân dân Thọ Hải hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1960)

Hoà bình lập lại, nhân dân Thọ Hải sống trong niềm vui thắng lợi của đất nước, quê hương đã tạo ra một khí thế mới để nhân dân tham gia vào các hoạt động xã hội nhân dân Thọ Hải với bản chất lao động cần cù, sáng tạo sẽ vượt qua những khó khăn, thử thách, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc, quê hương ngày càng giàu đẹp. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thanh Hoá mà trực tiếp là Huyện ủy Thọ Xuân, cùng với nhân dân cả nước, Chi bộ và nhân dân xã Thọ Hải phấn khởi, hăng say bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa. 

Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ lớn trên, công việc đầu tiên của Chi bộ và nhân dân là xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền, Mặt trận và các tổ chức quần chúng. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, cùng với những hoạt động tích cực của các đồng chí cán bộ, đảng viên ở địa phương nên sau một thời gian ngắn, ủy ban hành chính xã được củng cố lại trên cơ sở sự tín nhiệm của nhân dân. Tiếp theo, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng như: Thanh niên, Phụ nữ... lần lượt được tổ chức lại cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới. Các đồng chí được bầu giữ những trách nhiệm lãnh đạo đều đã trải qua thử thách, có thành tích và uy tín trong quần chúng, được quần chúng ủng hộ. Từ đây, công việc của địa phương có ủy ban hành chính xã điều hành, có các tổ chức quần chúng làm nòng cốt để xây dựng phong trào. 

Vừa củng cố, xây dựng chính quyền, Chi bộ và nhân dân Thọ Hải vừa bắt tay vào ổn định đời sống, khôi phục và phát triển kinh tế ở địa phương. Đây là vấn đề trọng tâm, vừa hết sức cấp bách, lại vừa hết sức phức tạp, khó khăn. Nó là công việc hoàn toàn mới đối với hầu hết các đồng chí cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hơn nữa trong lúc giao thời này, tư tưởng quần chúng diễn biến rất phức tạp. Trong xã, số gia đình thiếu đói ngày càng tăng, đa số người đi dân công về lại bị sốt rét. Một số dịch bệnh ở địa phương có nguy cơ bùng phát. 

Bên cạnh những khó khăn thì thuận lợi vẫn là cơ bản, sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng được công khai và toàn diện, nhân dân xã Thọ Hải cùng với nhân dân miền Bắc hăng hái, bắt tay vào nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống, chung tay xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa... Ý thức được nhiệm vụ đó, Chi bộ, chính quyền và nhân dân xã tích cực thực hiện các kế hoạch để ổn định đời sống nhân dân như: Tập trung giải quyết nạn đói với phương châm “không để cho dân bị chết đói”. Các tổ chức đoàn thể đến các gia đình còn lương thực vận động xuất gạo cho những người thiếu đói vay. Với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, nhiều gia đình đã xuất hàng trăm ki lô gam gạo giúp đỡ người nghèo, san sẻ cho nhau từng củ khoai, cân sắn. Chính quyền đã nhanh chóng phân phát đến những gia đình khó khăn, giúp bà con trong cơn hoạn nạn. 

Đi đôi với các biện pháp trên, chính quyền vận động nhân dân khai hoang để sản xuất. Trên các cánh đồng cao, đồng bãi, gò, đồi, nhân dân tích cực trồng các loại rau màu ngắn ngày như: ngô, khoai lang, sắn, bầu bí, rau, đậu. Dưới ruộng sâu, nhân dân trồng rau muống. Nhiều gia đình còn trồng khoai trên các ụ đất trong vườn, trong sân nhằm tăng lượng rau màu để giải quyết cái ăn trước mắt. Chính vì vậy, nạn đói bước đầu được giải quyết, tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. 

Kinh tế được phục hồi, dần dần đi vào ổn định đã tạo điều kiện để các mặt văn hóa, giáo dục, y tế có bước phát triển mới. Ban Bình dân học vụ tiếp tục phát triển rộng rãi, tổ chức được nhiều lớp học ở khắp các thôn xóm. Hằng ngày, sau những buổi lao động cần mẫn trên đồng ruộng, hàng trăm học viên là phụ nữ, trung niên, thanh niên... tấp nập đến lớp để hoàn thành chương trình xóa nạn mù chữ.  

Công tác y tế được Chi ủy, chính quyền xã quan tâm chỉ đạo thực hiện. Xã đã cử người đi học ở các lớp đào tạo cán bộ y tế về chữa bệnh cho nhân dân. Các phong trào “ăn chín, uống sôi”, “sạch làng, tốt ruộng" phát động rộng rãi trong toàn xã đã được nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Nhờ vậy, sức khỏe của nhân dân được đảm bảo, xã không để xảy ra những dịch bệnh lớn. 

Sau ngày hòa bình, ở Thọ Hải, các tệ nạn như rượu chè đình đám, ma chay, cưới hỏi theo hủ tục, các tệ nạn mê tín dị đoan vẫn đang còn phổ biến. Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền cùng các tổ chức thanh niên, phụ nữ tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân để bài trừ các tệ nạn, xây dựng nếp sống văn hóa mới như tổ chức đám cưới theo nếp sống mới, không ăn uống linh đình trong ma chay, cưới hỏi. Phong trào văn hóa, văn nghệ phát triển mạnh trong các thôn xóm. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trong xã từng bước được cải thiện rõ rệt. 

Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc. Từ vĩ tuyến 17 trở ra, đất nước hoàn toàn giải phóng, nhân dân miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền Nam tạm thời còn chịu sự thống trị của Mỹ ngụy. Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước vẫn chưa hoàn thành. Nhân dân ta vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong hoàn cảnh đó, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. 

Tại kỳ họp thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, Hội nghị hợp nhất toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã thông qua Cương lĩnh về vấn đề ruộng đất. Đặc biệt, ngày 04-12-1953, Quốc hội khóa I thông qua “Luật cải cách ruộng đất”. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp bóc lột tạo điều kiện cho người nông dân có trâu, bò, có ruộng để sản xuất.  Tỉnh Thanh Hóa tiến hành cải cách ruộng đất 5 đợt, từ giữa năm 1953 đến giữa năm 1956. Huyện Thọ Xuân tiến hành cải cách ruộng đất (đợt 4) từ tháng 6-1955 đến tháng 8-1957. Trước đó, từ năm 1953 dưới sự chỉ đạo của Đảng đoàn giảm tô, nhân dân xã Thọ Hải đã tiến hành đấu tranh với địa chủ, đòi thực hiện giảm tô 25% cho người làm ruộng, đồng thời thu một phần ruộng đất về tay nông dân, cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt. Cuối cùng những điền chủ có nhiều ruộng đã phải thực hiện đúng chủ trương giảm tô của Chính phủ. 

Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên tháng 12-1955, chi bộ tiến hành Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ (1955-1956). Tại đại hội đồng chí Nguyễn Thị Ngan tiếp tục được bầu làm Bí thư Chi bộ xã Thọ Hải; đồng chí Nguyễn Duy Cống được bầu Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã. 

Từ thực tế địa phương và thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên Đại hội đã ra nghị quyết về tiến hành cải cách ruộng đất, một số gia đình có nhiều ruộng đã nhường ruộng cho người nghèo, hoặc bán đi lấy tiền ủng hộ kháng chiến. Trong cuộc đấu tranh này toàn xã đã thu được hàng trăm mẫu ruộng, vườn, hàng chục con trâu bò và nhiều nông cụ sản xuất. 

Thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ chiếm hữu ruộng đất của chế độ phong kiến, đưa nông dân từ thân phận người làm thuê thành chủ nhân của xã hội. Mục tiêu “người cày có ruộng" của Đại hội đã trở thành hiện thực trên đất Thọ Hải. 

Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi có tính chiến lược đó, chúng ta đã phạm phải những khuyết điểm như: quy sai thành phần; không phân biệt địa chủ kháng chiến; mắc bệnh chủ nghĩa thành phần, nặng đấu tố, trừng phạt, nhẹ giáo dục; chủ yếu là tịch thu tài sản, ruộng đất, không trưng thu, trưng mua; tổ chức Đảng không được thực hiện đầy đủ quyền của mình, quyền dân chủ của nhân dân không được phát huy, việc phát triển Đảng không đảm bảo nguyên tắc. Thọ Hải thuộc vùng tự do trong kháng chiến, sau giảm tô thành phần giai cấp đã thay đổi đáng kể, nhưng khi tiến hành cải cách ruộng đất vẫn dập khuôn, máy móc. 

Những sai lầm trên đã ảnh hưởng đến kết quả của cải cách ruộng đất, giảm lòng tin của nhân dân vào đường lối của Đảng, tình hình tư tưởng lúc bấy giờ không ổn định, nội bộ nông dân căng thẳng giữa những người bị quy sai và cán bộ cốt cán, thành phần trong cải cách ruộng đất. 

Trước tình hình đó, ngày 18-8-1956, Hồ Chủ Tịch đã viết thư gửi đồng bào nêu rõ những thắng lợi của cải cách ruộng đất, đồng thời chỉ rõ những sai lầm cần khắc phục. Tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II) đã đề ra nhiệm vụ và biện pháp kiên quyết sửa chữa sai lầm.

Xã Thọ Hải hình thành 4 làng: Làng Hương Nhượng, làng Bún, làng Hón, làng Rạch. Làng Hương có 4 xóm: Hương Cần, Hương Kiệm, Hương Liêm, Hương Chính. Làng Bún có 4 xóm: Phấn Trí, Phấn Đấu, Công Tâm, Công  Lý. Làng Hón có: Hải Mậu, Hải Khoát, Hải Giang, Hải Tân Ngoài ra có thêm xóm Hải Có. Làng Rạch đặt tên là Ngọc Thành. Năm 1956-1957 mỗi xóm thành lập 01 tổ  đổi công hỗ trợ nhau làm ăn trong nông nghiệp.

  Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: Dân tộc Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong những năm trường kỳ kháng chiến, xã Thọ Hải là hậu phương vững chắc, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, cũng là địa phương bị máy bay thực dân Pháp bắn phá, ném bom làm thiệt hại người và của. Giờ đây hòa bình được lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Thọ Hải đang phấn khởi tự hào, khẩn trương thực hiện Nghị quyết 6 vả 7 của Trung ương về việc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, góp phần đấu tranh thống nhất đất nước.

Để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa xã hội trong thời kỳ mới, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Thọ Xuân, xã lớn Thọ Sơn được chia làm 3 xã: Thọ Diên, Thọ Lâm và xã Thọ Hải. Xã Thọ Hải mới gồm 7 làng Hương, làng Bún, làng Hóa, làng Rạch, làng Công Thành với số dân khoảng hơn 2 ngàn người. Tổ chức Đảng cũng được chia làm 3 chi bộ. Chi bộ Đảng xã Thọ Hải có 48 đảng viên do đồng chí Lê Xuân Vy được bầu làm Bí thư, đồng chí Đinh Văn Lưu được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch; đồng chí Nguyễn Công Chức làm được phân công  trực Đảng.

Giữa lúc nhân dân Thọ Xuân nói chung, cán bộ, đảng viên và nhân dân Thọ Hải nói riêng đang hăng hái hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế thì tại miền Tây Thanh Hóa, máy bay địch tiếp tế lương thực thực phẩm, vũ khí, quân trang quân dụng cho bọn biệt kích ở Tam Chung, Quang Chiểu (Quan Hóa). Chúng tuyên truyền xuyên tạc với các luận điệu “Đầu năm hòa cuối năm chiến tranh”, “Chế độ miền Bắc sưu cao nặng”... lung lạc hăm dọa, dụ dỗ đồng bào dân tộc di cư sang Lào, phá hoại tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt - Lào.

Ở Thọ Xuân, một số vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa, bọn gián điệp do địch cài cắm lại, chúng dựa vào Điều 14D của Hiệp định Giơ-ne-vơ tung ra những luận điệu “Miền Bắc sẽ chết đói”, “Miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “Chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”. Bằng những thủ đoạn lừa gạt, cưỡng bức tàn bạo của địch, hàng ngàn giáo dân nhẹ dạ, cả tin bỏ quê hương, nhà cửa ruộng vườn, tài sản di cư vào Nam, ở huyện Nga Sơn, Tĩnh Gia, bọn phản động lợi dụng tôn giáo, tập hợp bọn côn đồ vu cáo chính quyền cách mạng. Ở các huyện Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thọ Xuân địch lợi dụng vào nhà thờ tuyên truyền kích động, tổ chức cho giáo dân di cư vào Nam.

Cùng với những khó khăn do địch gây ra, tháng 9-1954 mưa lớn kéo dài, nước từ thượng nguồn đổ về dữ dội. Mức nước sông Chu, sông Mã dâng cao, các tuyến đê bị vỡ nhiều đoạn, hàng chục ngàn ha lúa và hoa màu đến ngày thu hoạch bị mất trắng.

Tại huyện Thọ Xuân, đê sông Chu phía hữu ngạn vỡ tại Liên Phô (Thọ Nguyên); đê tả ngạn vỡ tại Căng Hạ (Thọ Trường). Các xã Thọ Tân, Thọ Thế, Thọ Dân, Thọ Cường, Xuân Thịnh, Xuân Lộc...có nơi nước ngập lên đến nóc nhà. Nước rút chậm, bệnh tật phát sinh, nạn đói diễn ra gay gắt.

Vùng tả ngạn, vỡ đê Thọ Trường cùng với nước sông Cầu Chày dâng cao, các xã Xuân Tín, Phú Yên, Xuân Minh, Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường đều bị ngập lụt nặng, hàng ngàn ha lúa và màu đã đến ngày thu hoạch bị mất trắng.

Tại Thọ Hải, một số làng như: Làng Hương, làng Bún, làng Hón, làng Rạch, Công Thành, Mậu Công nhà cửa bị ngập đổ. Chính quyền xã huy động dân quân, du kích dùng thuyền nan, máng hỗ trợ nhân dân từ nơi nguy hiểm vào nơi an toàn, bảo vệ an toàn tài sản cho nhân dân. Với những kinh nghiệm sống ở vùng lũ cùng với sự chỉ đạo sát của chi bộ, chính quyền đã hạn chế được những khó khăn do lũ lụt gây ra.

Lũ lụt, vỡ đê cuối năm 1954, đã làm 36.000 ha lúa và màu của Thanh Hóa bị mất trắng. Đầu năm 1955, nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh. Ở huyện Thọ Xuân nhiều gia đình mất bữa, lác đác ở các làng đã có người chết đói. Trước tình hình nạn đói diễn ra nghiêm trọng kéo dài, Huyện ủy Thọ Xuân chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” từ huyện xuống đến xã, do đồng chí Chủ tịch làm Trưởng ban, trước hết vận động nhân dân với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau. Mặt khác kêu gọi nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, trồng cây rau màu ngắn ngày để chống đói. Với sự đoàn kết nỗ lực chống đói của cả huyện, lại được Nhà nước hỗ trợ ba đợt cứu tế gạo, nạn đói đầu năm 1955 được đẩy lùi, đời sống nhân dân trở lại bình thường và ổn định.

Thực hiện chỉ thị của liên khu ủy IV và chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Ủy ban Hành chính huyện Thọ Xuân cử cán bộ, Huyện ủy viên, cán bộ dân vận về các vùng giáo dân bám sát từng gia đình, ngõ xóm vận động quần chúng không mắc mưu địch. Với tinh thần Chúa ở khắp mọi nơi, Chúa ở mọi nhà, Chúa ở trong lòng chúng ta, chỉ cần kính Chúa yêu nước, đồng bào không di cư ở lại làm ăn sinh sống. Vận động nhân dân đập tan mọi âm mưu của địch, tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, chi bộ Đảng, chính quyền xã Thọ Hải đã tổ chức cho nhân dân học tập chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; kêu gọi nhân dân đoàn kết lương - giáo, chống di dân vào Nam, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch. Qua kiểm tại các xã có giáo dân, tình hình chính trị trên địa bàn huyện Thọ Xuân trở lại ổn định.

Sau hòa bình lập lại, nhằm nhanh chóng phục hồi kinh tế, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã chỉ đạo Ủy ban hành chính tỉnh lập kế hoạch tu sửa đập Bái Thượng, được Chính phủ đồng ý. Ngày 01-9-1954, việc tu tạo đập Bái Thượng và hệ thống nông giang sông Chu được tiến hành. Tham gia công trường có 22 ngàn dân công, một trung đội bộ đội, 700 công nhân kỹ thuật. Huyện Thọ Xuân đóng góp 5.000 dân công. Xã Thọ Hải có 100 dân công lên công trường. Sau ba tháng khẩn trương thi công nước từ đập Bái Thượng đã chảy về nông giang tưới cho 50.000 ha lúa chiêm xuân của 6 huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Nông cống và Quảng Xương (huyện Triệu Sơn được tách ra từ Thọ Xuân, Nông Cống năm 1964), trong đó có 190 ha đất cấy lúa 2 vụ ở Thọ Hải.

Trong hai năm 1955 - 1956, dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, chính quyền, nhân dân Thọ Hải đã khai hoang, phục hóa được gần 10 ha để sản xuất lúa màu.

Đầu năm 1955, được sự giúp đỡ của Trung ương, Thanh Hóa nâng cấp, mở một số tuyến đường lên miền Tây. Hàng trăm dân công của xã Thọ Hải làm đường Mục Sơn - Vạn Mai, Bái Thượng - Cửa Đạt, đường 217A. Chi bộ cũng tiếp tục hoàn thành triệt để dân chủ, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, thi hành luật cải cách ruộng đất của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban bố ngày 4-12-1953.

Cải cách ruộng đất ở huyện Thọ Xuân được tiến hành làm 2 đợt. Đợt đầu làm thí điểm 7 xã (Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường (vùng tả ngạn sông Chu), Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc (hữu ngạn sông Chu). Đợt 2 tiến hành ở các xã còn lại. Xã Thọ Hải tiến hành cải cách ruộng đất vào đợt 2.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy về cải cách ruộng đất. Các đội Cải cách ruộng đất về xã Thọ Hải xuống các làng cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân. Ôn nghèo kể khổ,bám rễ, xâu chuỗi, phát động nhân dân đấu tranh với cường hào địa chủ. Với phương châm dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến. Tịch thu, trưng thu, trưng mua nhà cửa, ruộng đất, tài sản của địa chủ chia cho nông dân.

Sau một thời gian đấu tranh, xã Thọ Hải có 12 địa chủ, tịch thu 300 mẫu ruộng, 12 căn nhà ngói, 21 con trâu bò và hàng trăm công cụ sản xuất, đồ dùng trong nhà chia cho dân nghèo.

Cải cách ruộng đất thắng lợi đã xoá bỏ triệt để quan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất đem lại quyền lợi cho nông dân lao động, mở đường cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhưng Cải cách ruộng đất kết hợp với chỉnh đốn tổ chức đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Do quy định 5% tổng số dân nông nghiệp là địa chủ, nên hàng loạt gia đình không đủ tiêu chuẩn bị quy lên địa chủ. Nhiều gia đình cán bộ, đảng viên, gia đình có công với cách mạng bị quy địa chủ, tình nghi phản động, bị khai trừ, tù đầy.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã kịp thời phát hiện ra sai lầm trong cải cách ruộng đất và đề ra chính sách sửa sai. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Huyện ủy Thọ Xuân, Chi bộ Đảng Thọ Hải tổ chức cho nhân dân học tập Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, thực hiện cuộc vận động sửa sai trong Cải cách ruộng đất công tác sửa sai được tiến hành khẩn trương và triệt để. Các gia đình oan sai được trả lại thành phần, ruộng vườn, nhà cửa, tài sản, những cán bộ, đảng viên bị quy sai được trả chức vụ, đảng tịch. Nhờ vậy khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, an ninh chính trị xã hội trong toàn xã nhanh chóng được ổn định.

Sau sửa sai trong cải cách ruộng đất, chi bộ Đảng, chính quyền Thọ Hải được kiện toàn củng cố. Các đồng chí ủy viên chấp hành gồm Phạm Đình Tơn, Ngô Đình Cẩn, Lê Công Sang và Lê Công Vang. Đồng chí Phạm Đình Tơn làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Ngô Đinh Cẩn là Phó bí thư phụ trách chính quyền; đồng Lê Văn Ninh - trưởng Công an, Hoàng Đình Hào - xã đội trưởng, Nguyễn Văn Ninh - Bí thư Chi đoàn; Mai Thị Thủy - Hội trưởng Phụ nữ xã; Đỗ Viết Sinh - phụ trách Nông hội (hội Nông dân ngày nay), Nguyễn Mậu Mưu - Chủ tịch Hội Liên Việt (Mặt trận Tổ quốc ngày nay). Các tổ chức đoàn thể hoạt động có nhiêu hiệu quả, nhờ thế sản xuất nông nghiệp được phát huy. Cho đến cuối năm 1958, xã Thọ Hải có 21 tổ đổi công với 420 hộ tham gia. Phong trào tổ đổi công phát triển giúp nhau ngày công, sức kéo trâu bò, giống gieo trồng, sản xuất và thu hoạch đúng thời vụ, đồng thời bước đầu đưa nông dân làm quen với đường lối làm ăn tập thể.

Công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế trên địa bàn xã Thọ Hải thu được thắng lợi, đời sống nhân dân được nâng lên. Chi bộ Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện nhiệm vụ quan trọng mà Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V (tháng 5-1958) là: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, tiến lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Hợp tác hóa phải gắn liền với cơ giới hóa, thủy lợi hóa”...

Để tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng thí điểm hợp tác xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn và Đông Phương Hồng Thọ Xuân và một số nơi khác nhằm rút kinh nghiệm.

Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có 3 vùng kinh tế khác biệt, nông dân ở mỗi vùng trình độ, phong tục, cách thức sản xuất và trình độ thâm canh khác nhau, vì vậy Tỉnh ủy chủ trương: tiến hành từ thấp đến cao, tiến từng bước vững chắc, bảo đảm nguyên tắc: tự nguyện dân chủ, cùng có lợi. Ở miền núi kết hợp cải cách dân chủ với xây dựng hợp tác xã, ở vùng biển xây dựng các tập đoàn đánh cá, các hợp tác xã nông - ngư, nông - diêm kết hợp.

Thời gian đầu ban vận động xây dựng hợp tác xã, vận động từ gia đình gia nhập hợp tác xã, sau đó nông dân tự nguyện làm đơn xin vào hợp tác xã.

Theo kế hoạch, những tháng đầu năm 1958 toàn tỉnh chỉ xây dựng 177 hợp tác xã bậc thấp, quy mô xóm nhưng cuối năm đã xây dựng được 1.293 hợp tác xã, chiếm tỷ lệ 11,5% số hộ nông dân trong tỉnh.

Cuối năm 1958, Trung ương Đảng tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về xây dựng hợp tác xã ở Thanh Hóa. Đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh, ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng đã chủ trì hội nghị.

Trên cơ sở những quan điểm của Trung ương kết luận, năm 1959 Thanh Hóa đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa. Ở miền xuôi 60,2% số hộ nông dân vào hợp tác xã, ở miền núi kết hợp với cải cách dân chủ với xây dựng HTX đã có 89% số nông dân vào hợp tác xã. Năm 1960, toàn tỉnh đã có 91,5% số hộ nông dân vào hợp tác xã và đã xây dựng được 4.930 hợp tác xã bậc thấp. Nhiều hợp tác xã đã có năng suất từ 2,5 đến 3 tấn thóc trên một ha gieo trồng. Phong trào làm thủy lợi, làm phân bón và cải tiến công cụ sản xuất được đẩy mạnh. Trên cơ sở đó, ngày 13/3/1961 Tỉnh ủy quyết định xây dựng hợp tác xã bậc cao có quy mô thôn, liên thôn và xã.

Theo kế hoạch, năm 1961 sẽ đưa 90% số hợp tác xã lên quy mô thôn, trong đó có từ 40-50% quy mô rộng hơn. Năm 1962 xây dựng hợp tác xã toàn xã thí điểm, trong những năm 1963-1964 nhân rộng ra toàn tỉnh.

Năm 1961, toàn tỉnh có 46% hợp tác xã bậc cao, quy mô thôn, liên thôn và 7 hợp tác xã có quy mô xã.  Năm 1963 có 78,3% hợp tác xã bậc cao. Năm 1967, có 49% hợp tác xã liên thôn và toàn xã. Năm 1973 toàn tỉnh có 260 hợp tác xã có từ 90 hộ xã viên trở lên, 3 hợp tác xã quản lý từ 700 đến 800 ha ruộng đất.

Hợp tác xã bậc cao khác với hợp tác xã bậc thấp là không phải trả hoa lợi ruộng đất, trâu bò, công hữu toàn diện, quy mô rộng lớn. Nhiều hợp tác xã đã công hữu cả vườn cây, cao cá, đồi luồng.

Hợp tác xã bậc cao đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để đầu tư khóa học kỹ thuật, đẩy mạnh công tác thủy lợi, thực hiện các chính sách xã hội. Hợp tác đã có vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Tuy vậy quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bộc lộ những hạn chế sau đây:

Một là: Nhận thức việc xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp còn rất đơn giản. Tư tưởng chỉ đạo nóng vội, có lúc có nơi vi phạm nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi.

Hai là: Đã biến hợp tác xã nông nghiệp - một số tổ chức kinh tế thành một tổ chức hành chính - kinh tế. Ban quản lý hợp tác xã đồng thời phải thực hiện nhiều chức năng: quản lý kinh tế, hành chính, văn hóa, xã hội. Trình độ tổ chức quản lý còn non yếu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, cộng thêm một số HTX cán bộ tham ô, lãng phí làm cho thu nhập của xã viên giảm dần, đời sống khó khăn, tính tích cực của người lao động cùng giảm sút.

Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 3 năm (1958-1960), cuộc đấu tranh giữa hai con đường tập thể và cá thể. Bên cạnh việc vận động tuyên truyền, chi bộ và chính quyền tổ chức cho nhân dân được tập điều lệ hợp tác xã nông nghiệp. Dựa trên cơ sở nông dân đã vào tổ đổi công, tháng 01-1958, xã Thọ Hải xây dựng hai hợp tác xã nông nghiệp làm điểm: Hợp tác xã Đông Phương Hồng và Hợp tác xã Chính Nghĩa (xóm Hương Chính).

 Năm 1958, làng Hương thành lập 2 HTX nông nghiệp là:

Hợp tác xã Đông Phương Hồng: Ông Lê Văn Luyến làm chủ nhiệm. Ông Nguyễn Duy Phi làm Phó chủ nhiệm; Ông Nguyễn Hữu Chinh làm kế toán.

Hợp tác xã Chính Nghĩa (xóm Hương Chính) Ông Nguyễn Duy Cống làm chủ nhiệm; Ông Vũ Trung Nha làm phó chủ nhiệm; Ông Nguyễn Vũ Trung Thành làm kế toán; Làng Bún thành lập HTX Vinh Quang; Ông Đỗ Ngọc Chóe làm chủ nhiệm; Ông Nguyễn Xuân Trẫm -phó chủ nhiệm; Ông Lê Đình Năm làm kế toán

Làng Hón thành lập HTX Thành Minh; Ông Bùi Đắc Tụy làm chủ nhiệm. Ông Lê Xuân Cơ - phó chủ nhiệm; Ông ……………………….làm kế toán

Làng Rạch thành lập HTX Ngọc Thành; Ông Nguyễn Công Chức làm chủ nhiệm; Ông Lê Văn Sính làm phó chủ nhiệm; Ông Lê Như Thon làm kế toán.

Năm 1960 HTX Đông phương Hồng và HTX Chính Nghĩa được tháp nhập: Ông Lê Văn Luyến làm chủ nhiệm HTX; Ông Nguyễn Duy Phi làm Phó chủ nhiệm; Ông Nguyễn Hữu Chinh làm kế toán trưởng; Năm 1962 đến năm 1965: Ông Lê Văn Luyến làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Duy Phi làm phó chủ nhiệm, ông Lê Văn Đỗ làm phó chủ nhiệm, ông Nguyễn Danh Tú làm kế toán trưởng

Từ hai hợp tác xã xây dựng điểm, tháng 10-1959, xã Thọ Hải có 4 hợp tác xã nông nghiệp nữa ra đời. Cuối tháng 10-1959, xã Thọ Hải đã xây dựng 6 hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp. Như vậy, chỉ trong vòng 1 năm, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ đảng 1 chính quyền, xã Thọ Hải đã cơ bản hoàn thành việc xảy dựng hợp tác hóa nông nghiệp, hơn 90% hộ nông dân vào hợp tác xã, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ vào coo đường làm ăn tập thể, cải tạo đồng ruộng, làm thủy ỉẹi. đắp bờ vùng, bờ thửa, bỏ tập tục canh tác lạc hậu, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xui: nông nghiệp.

Sau hòa bình lập lại, cùng với việc phát triển thị tử Tứ Trụ, nghề tiểu thủ công nghiệp ở Thọ Hải cũng phát triển như cửa hàng may mặc, cơ khí, cắt tóc, vận chuyển hàng hóa, vật liệu bằng xe trâu bò kéo... Công tác văn hóa thông tin được chi bộ và chính quyền quan tâm. Phát huy thành tích trong kháng chiến chống Pháp, bằng hình thức phát thanh tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến nhân dân. Các làng tự hình thành các đội văn nghệ biểu diễn trong các dịp lễ tết, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc... góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, làm lành mạnh hóa xã hội.

Vgiáo dục, chi bộ chỉ đạo chính quyền tiếp tục duy trì các lớp học Bình dân học vụ. Đến năm 1959, Thọ Hải có 07 làng đã hoàn thành công tác xóa nạn mù chữ. Nhiều người tâm huyết với công tác xóa mù chữ. Vgiáo dục phổ thông đến năm 1959, Thọ Hải đã có trường tư thục Quang Trung gồm một lớp 7, hai lớp 6 và hai lớp 5 với tổng số học sinh là 140 em. Trường được lợp ngói, bàn ghế đảm bảo điều kiện dạy và học. (kiểm tra lại)

Vy tế, sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến đời sổng sức khỏe của nhân dân. Nhiều phong trào được phát động rầm rộ từ trung ương xuống đến địa phương như phong trào ăn chín uống sôi, phòng bệnh, vệ sinh cá nhân, gia đình, làng xóm... đã góp phần ngăn chặn được dịch bệnh, nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Từ một nhà hộ sinh ở Hương Nhượng được hình thành năm 1947, được sự quan tâm của chi bộ Đảng, chính quyền, đến cuối năm 1959, hệ thống y tế xã Thọ Hải đã xuống đến làng, xóm và cùng với đội ngũ thầy thuốc đông y ở địa phương đã ngăn chặn không để dịch bệnh phát sinh như đậu mùa, tả lỵ, thương hàn, đau mắt đỏ... Tiêu biểu cho các phong trào như ông Văn, ông Nguyệt, bà Xuân, bà Vọng, ông Khánh, bà Hội... hết lòng vì sự nghiệp bảo vệ, nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Vào những năm 60, của thế kỷ trước xã có trạm xá, có y tá, sau đó có y sĩ, bác sĩ. Ngày nay, việc khám và chữa bệnh của người dân đều được các bác sĩ, y sĩ của trạm xá xã đảm nhiệm. Chỉ những ca bệnh nặng mới chuyển lên tuyến trên.

Thực hiện luật nghĩa vụ quân sự do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Tháng 5-1959, xã Thọ Hải có 22 thanh niên xung phong lên đường nhập ngũ. Đây là thế hệ bộ đội Cụ Hồ đầu tiên chống Mỹ của xã.

Cùng với việc phát triển kinh tế, văn hóa, công tác an ninh chính trị và trật tự xã hội vẫn được bảo đảm. Trung đội dân quân hơn 30 người vẫn được duy trì, thường  xuyên luyện tập. Lực lượng công an được học tập nâng cao nghiệp vụ, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn xã.

Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Thọ Xuân, chi bộ Đảng và chính quyền xã Thọ Hải bằng sự nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1958-1960), hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục triển kinh tế, văn hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Với những thành tích đã đạt được, chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Thọ Hải càng tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tự tin vững bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Đảng lãnh đạo nhân dân Thọ Hải thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965)

Thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) và Nghị quyết Đại hội Đại tỉnh Đảng bộ lần thứ V (tháng 3-1961), dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, toàn xã Thọ Hải đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi nhằm từng bước hoàn thành chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) mà nhiệm vụ trước mắt là: Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giữa hai con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (1961), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện từ thực tế cách mạng của xã Đảng ủy xã đã lãnh đạo nhân dân chuyển hướng sự lãnh đạo của Đảng bộ là xây dựng Đản bộ mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh giữa 2con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hooijchur nghĩa, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nâng cao sản lượng lương thực, thực phẩm, đồng thời tích cực phát triển văn hóa, y tế, giáo dục. Củng cố quốc phòng, an ninh, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà. Tiến công vào 3 cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất; Cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó Cách mạng khoa học kỹ thuật then chốt.

Nhằm hoàn thành các mục tiêu kinh tế, văn hóa. xà hội những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, tháng 2 năm 1962, chi bộ Đảng xã Thọ Hải tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1962-1963, tham dự Đại hội có 62 đảng viên trong toàn xã về dự. Đại hội đề ra mục tiêu: Chi bộ chỉ đạo các tổ đảng, vận động quần chúng nhân dân tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc; triển khai học tập, thực hiện các cuộc vận động lớn của tỉnh như: “Ba xây”, “Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp tác xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp thủy lợi”, “Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng”.

Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 7 ủy viên. Đồng chí Lê Xuân Vi được bầu làm Bí thư; đồng chí Đinh Văn Lưu được bầu làm Phó Bí – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Công Chức - trực Đảng.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Nghị quyết của Đảng bộ xã về phát động phong trào “Thi đua đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” nhằm thúc đẩy các hợp tác xã trong tỉnh tiến mạnh tiến nhanh trên mọi lĩnh vực.

Hưởng ứng phong trào thi đua sôi nổi của nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ nhân dân xã Thọ Hải đã cố gắng vượt bậc trong việc thực hiện hợp tác xã nông nghiệp. Cuối năm 1961, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã bậc thấp ở Thọ Hải đã căn bản hoàn thành, toàn xã đã xây dựng được 9 hợp tác xã với 98, 2% số hộ vào hợp tác xã, 96% đất đai đưa vào làm ăn tập thể, xây dựng từ 7 hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao (tức là hợp tác xã liên xóm liên thôn). Thực hiện công hữu hóa toàn bộ trâu, bò, ruộng đất.

Việc xây dựng hợp tác xã bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ snr xuất và quan hệ xã hội mới ở nông thôn. Tạo ra bước chuyển biến tiến bộ trong đời soongskinh tế xã hội của nhân dân Thọ Hải.

Năm 1961, nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt của sản xuất nông nghiệp nên cả 3 vụ lúa (màu) đều được mùa nên đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, diện hộ thiếu đói thu hẹp, đời sống văn hóa,tinh thần đang dần được nâng lên, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ. Tạo những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa xã hội, Đảng bộ nhân dân Thọ Hải đã tạo ra sự thay đổi căn bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, thể dục thể thao. 

Do năng lực quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý các hợp tác xã từ ban chủ nhiệm, ban trị sự đến đội sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại nên bên cạnh những hợp tác xã ăn nên làm ra còn những hợp tác xã yếu kém. Năng suất lúa thấp, công lao động quy thóc chưa cao, xã viên chân trong, chân ngoài; nhiều hộ xã viên làm đơn xin ra khỏi hợp tác trong đó có cả cán bộ, đảng viên.

Hợp tác xã Đông Phương Hồng (Thọ Hải) được nhân dân cả nước nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng đã đến đây học tập cách làm kinh tế của xã.

Bên cạnh cây lương thực chính là lúa, chi bộ chỉ đạo: hợp tác xã phát triển cây màu như cây ngô, khoai lang, lạc, rau đậu... tiến hành thâm canh, xen canh trên lúa. Mặt khác, chi bộ chỉ đạo các hợp tác xã công khai kinh tế, tài sản hợp tác xã. Đại hội xã viên xây dựng kế hoạch sản xuất từng vụ, từng năm. Nhờ thế, năng suất lúa và màu ngày một tăng, đời sống xã viên được cải thiện, không còn hiện tượng xin ra khỏi hợp tác xã, xã viên yên tâm lao động sản xuất.

Cuối năm 1959, hợp tác xã mua bán ra đời với số vốn ban đầu 4.600 đồng với 500 cổ phần, sau này tăng lên 1.372 cổ phần. Hợp tác xã mua bán ra đời là người nội trợ đắc lực của nhân dân và đã góp phần phát triển sản xuất.

Vcông tác Đảng: Nhằm nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng viên nông thôn, chi bộ đã kèm cặp, bồi dưỡng và kết nạp 7 đảng viên lớp 6/1, đưa tổng số đảng viên chi bộ Thọ Hải lên 69 đồng chí.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ VII (tháng 12-1962), Đảng ủy xã Thọ Hải được thành lập. Lúc này Đảng bộ có 10 chi bộ, đồng chí Lê Xuân Vi được bầu làm Bí thư; đồng chí Đinh Văn Lưu được bầu làm Phó Bí thư– Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Công Chức - trực Đảng.

 

Tháng 3-1963, được sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ xã Thọ Hải tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1963-1964, vdự có tất cả các đảng viên trong toàn xã. Đại hội tập trung kiểm điểm việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội hai năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và đề ra nhiệm vụ của chi bộ trong nhiệm kỳ tới là: Vnông nghiệp: Tiếp tục củng cố và cải tiến các hợp tác xã, mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng vụ. đẩy mạnh phong trào làm phân chuồng, phân xanh, bùn ao, áp dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến nông cụ sản xuất để nâng cao sản lượng lúa và hoa màu, cải thiện đời sống xã viên; tháp nhập các hợp tác xã nhỏ, tiến lên hợp tác xã bậc cao, quy mô mỗi làng một hợp tác xã.

Trong những năm 1963 - 1964, cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa giống mới có năng xuất cao vào sản xuất như: Nông nghiệp 8, nông nghiệp 5, khe nam lùn, thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng vụ đông, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng. Hợp tác xã Đông Phương Hồng là một trong những đơn vị có trình độ thâm canh tăng năng suất  lúa đã được bác học Lương Đình Của chọn làm điểm chỉ đạo sản xuất các loại giống lúa mới để nhân rộng trên địa bàn nhiều tỉnh. Nhờ áp dụng tốt biện pháp khoa học kỹ thuật Thọ Hải đã thành điển hình của cả nước Hợp tác xã Đông Phương Hồng của Thọ Hải là ngọn cờ tiêu biểu về thâm canh tăng năng suất lúa đạt 6,6 - 6,8 tấn thóc/ha.

Tại xã Thọ Hải từ ngày 15 - 17 tháng 6 năm 1964, Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh tăng năng xuất của hợp tác xã Đông Phương Hồng. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và các đại biểu tỉnh bạn, các nhà khoa học đã tham gia hội nghị.

Tổng kết hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã khen ngợi Đông Phương Hồng có một Chi bộ vững mạnh, với 24 đảng viên, tỷ lệ nữ khá (8 đồng chí1) đội ngũ cán bộ hăng hái nhiệt tình,có tinh thần cách mạng tiến công. Đồng ruộng của Đông Phương Hồng có hệ thống mương máng hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu khoa học, bờ vùng, bừa thửa thẳng hàng trông đẹp mắt. Từ kinh nghiệm thực tế sinh động sáng tạo này, mong rằng Đông Phương Hồng sẽ còn tiến nhanh tiến mạnh hơn nữa…2

 

Về văn hóa xã hội: Quan tâm đên công tác thông tin, tuyên truyền, tiếp tục bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan đảm bảo cơ sở vật chất cho trường cấp I, các lớp giảng để đảm bảo công tác dạy và học; xây dựng trạm xã với đội ngũ thầy thuốc vững về chuyên môn, làm công tác phòng và chữa bệnh cho nhân dân.

Van ninh - quốc phòng: Duy trì và củng cố trung đội dân quân mạnh, cùng với lực lượng công an xã đảm bảo trật tự an ninh trên địa bàn, đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, góp phần đấu tranh thống nhất đất nước.

Vcông tác Đảng: Xây dựng, củng cố các tổ Đảng, toàn chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của các tổ chức Đảng ở cơ sở. Tiếp tục bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Xuân Vi được bầu làm Bí thư; đồng chí Đinh Văn Lưu được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Công Chức - trực Đảng.

Học tập cách quản lý, cải tiến của Hợp tác xã Đông Phương Hồng Đại hội chính quyền xã Thọ Hải chỉ đạo quản lý cải tiến tất cả các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn. Xác định lại mức khoán, thực hiện phân phối sản phẩm theo công lao động, cải tiến công cụ sản xuất (cày 51), giải phóng đôi vai bằng xe cải tiến, xe trâu bò kéo; hoàn chỉnh hệ thống kênh mương bờ vùng, bờ thửa giữ nước và vận chuyển phân bón cho lúa, hoa màu thuận lợi. Lần đầu tiên các giống lúa mới có năng suất cao được đưa vào gieo cấy trên đồng đất Thọ Hải như: Đông Phương Hồng, Quyết Thắng, Quyết Tiến, nam Ninh, Xuân Thành,… chịu được sâu bệnh và cho năng suất cao.

Thực hiện nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”, đối với xã Thọ Hải là một đất hẹp, người đông, không đủ điều kiện để sản xuất, phát triển kinh tế, Đảng bộ và chính quyền xã đã phát phong trào kêu gọi đồng bào đi định cư xây dựng kinh tế miền núi. Để tạo điều kiện cho bà con đến nơi ở sớm ổn định cuộc sống để sản xuất, Đảng bộ cử thanh niên lên trước khai thác diện tích đất ở, canh tác. Hợp tác xã hỗ trợ lương thực, giống cây, con, vận chuyển sản xuất, nhà cửa của nhân dân đến nơi ở mới. Như vậy, đến cuối năm 1963, xã Thọ Hải có 5 hợp tác xã nông nghiệp, 01 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, 01 hợp tác xã tín dụng và 01 hợp tác xã mua bán, đưa hơn 90% số hộ vào con đường lam ăn tập thể.

Giữa lúc nhân dân xã Thọ Hải cùng nhân dân cả nước đang hăng hái thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) thì vào tháng 3 năm 1964 Tổng thống Mỹ L.Giônxơn phê chuẩn kế hoạch ném bom đánh phá miền Bắc (gồm 94 mục tiêu), trong đó Thanh Hóa là trọng điểm đánh phá lớn. Mục đích của chúng là phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam, nhằm cứu nguy cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đang có nguy cơ phá sản.

Trước tình hình đó, ngày 27 và 28-4-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị đặc biệt và ra lời kêu gọi “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”.

Đầu tháng 5-1964, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ra chỉ thị cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích, phá hoại của giặc Mỹ, ngăn chặn kịp thời những hành động chống phá của bọn phản động.

Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và Chỉ thị của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải kịp thời chuyển hướng mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường công tác quốc phòng, sẵn sàng đối phó với địch mở rộng quy mô đánh phá ra miền Bắc.

Là một xã có đường Tỉnh lộ 47 chạy dọc từ đầu đến cuối xã, hai tuyến giao thông đường thủy là sông Chu và sông Nông giang, với nhiều bến đò, cầu cống, lại có chợ Đường xã Thọ Hải có thể sẽ trở thành mục tiêu đánh phá của máy bay địch. Trước tình hình trên, Đảng bộ và chính quyền đã tổ chức cho lực lượng dân quân và nhân dân đào hầm trú ẩn, đào giao thông hào ở các gia đình, nơi công cộng, nơi tập trung đông người, các tụ điểm kinh tế như trụ sở hợp tác xã, nhà kho, bến đò, chợ... Trong 2 năm 1964 - 1965, Đảng bộ và chính quyền tổ chức động viên tiễn đưa hàng trăm thanh niên lên đường tòng quân đánh Mỹ.

Lúc này, không khí chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ sôi sục khắp làng xã. Trung đội dân quân tập trung của xã được kiện toàn, bổ sung lực lượng, trang bị vũ khí, chia thành các tiểu đội; thành lập đội cứu thương, cứu hỏa, trực báo phòng không. Kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực để sẵn sàng chiến đấu.

Thanh niên là lực lượng xung kích đi đầu trong mọi phong trào ở địa phương như làm thủy lợi, làm phân xanh, bèo hoa dâu, trực chiến đấu… Được đảng bộ tích cực bồi dưỡng, trong 2 năm 1964-1965 đã có 13 người vinh dự được kết nạp vào Đảng.

Về thủy lợi đã hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa, mương dẫn, mương tiêu thoát nước lên đến 3250 ngày công, đào đắp 1.500m3 đất; xây dựng 85 công trình thủy lợi lớn nhỏ, chủ động tưới tiêu cho 300 mẫu đất cấy hai vụ lúa. Bình quân lương thực đầu người 18kg thóc/ tháng (không kể hoa màu), do đó, đời sống xã viên được nâng lên một bước.

Công tác y tế, văn hóa, giáo dục được Đảng bộ và chính quyền quan tâm. Trường cấp I được sơ tán về nơi an toàn, có hầm, hào giao thông đảm bảo an toàn cho công tác dạy và học. Đội ngũ y tế cơ sở được bổ sung, bên cạnh việc chữa bệnh, phòng bệnh cho nhân dân, đội kinh tế xã Thọ Hải và đội cứu thương, sơ cấp cứu thương binh trước khi chuyển lên tuyến trên.

Mười năm hòa bình (1954-1964) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải kiên cường, dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn, hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục thiên tai, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất thành công, thực hiện ước mơ ngàn đời “người cày có ruộng”; bước đầu tạo sự dân chủ, công bằng trong đời sống nhân dân. Xây dựng các tổ đổi công, tiến lên xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, xóa bỏ triệt để quan hệ sản xuất phong kiến “người bóc lột người”. Cùng với các hợp tác xã nông nghiệp, hợp ác xã mua bán, tín dụng và sau đó là hợp tác xã thủ công nghiệp ra đời, từng bước thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa; củng cố an ninh quốc phòng, tạo 12 sức mạnh tổng hợp sẵn sàng cùng quân và dân cả tỉnh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, chi viện tối đa sức người, sức của giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

3. Đảng lãnh đạo chuyển hướng phát triển kinh tế, văn hóa, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc mỹ (1965-1968)

Đầu năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước sang thời kỳ mới, đầy gay go ác liệt. Ở miền Nam, Mỹ ồ ạt đưa 50 vạn quân Mỹ và chư hầu cùng nhiều vũ khí, thiết bị chiến tranh hiện đại, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” thay thế “Chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản hoàn toàn, đồng thời mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân ra miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm lung lay ý chí đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của nhân dân ta. Thanh Hóa nằm trên tuyến giao thông huyết mạch Bắc - Nam trở thành mục tiêu thường xuyên đánh phá của địch.

Trong không khí khẩn trương, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của quân và dân miền Bắc, đầu năm 1965, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Thọ Xuân được tổ chức. Đại hội đề ra biện pháp chuẩn bị thế trận toàn dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Tập trung lãnh đạo dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng làng xã chiến đấu, tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu báo động phòng không sơ tán, đảm bảo trật tự an ninh và  giao thông vận tải thông suốt. Đại hội phát động phong trào lao động sản xuất với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”, đẩy mạnh hơn nữa phong trào “Thủy lợi thắng Mỹ”, thâm canh tăng năng suất lúa và cây màu, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.

Cùng với cả miền Bắc, huyện Thọ Xuân thực sự đã bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Là một huyện có nhiều mục tiêu trọng điểm đánh phá của máy bay địch như đập Bái Thượng, nhà máy thủy điện Bàn Thạch, bến phà Mục Sơn, sân bay quân sự Sao Vàng, Tỉnh lộ 47 và quốc lộc 15A… là hệ thống giao thông nối liền giữa hậu phương lớn với chiến trường miền Nam và nước Lào.

Ngày 27-4-1965, nhiều máy  bay Mỹ đã bắn 18 quả Rốc - Két xuống khu vực Sao Vàng, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân trên đất Thọ Xuân. Tiếp đó, trong vòng hơn một tháng, giặc Mỹ đã dội bom xuống nhiều khu vực trọng điểm kinh tế, giao thông, vận tải, mục tiêu quân sự. Chúng dã man bắn phá bừa bãi vào nhiều khu dân cư trên địa bàn huyện. Tháng 5- 1965, máy bay Mỹ ném bom xuống đoạn đê xã Xuân Tín làm chết 22 người; ném bom vào khu vực nhà thờ Hữu Lễ (Thọ Xương), phố Bái Thượng (Xuân Bái) làm tổn thất nhiều người và của cải.

Đặc biệt, ngày 12-4-1965, máy bay Mỹ ném bom xuống cầu Mau (cầu qua sông nông giang nối đường 47 với sân bay Sao Vàng) làm chết 3 người; ném bom xuống chợ Hương (xã Thọ Hải) làm chết 13 người, nhiều người bị thương. Sau khi bom nổ, Đảng ủy, chính quyền, lực lượng dân quân đã có mặt kịp thời cứu chữa người bị thương, động viên giúp đỡ các gia đình bị nạn, tổ chức mai táng người chết, kịp thời ổn định tình hình trên địa bàn xã.

Quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Thanh Hóa, ngày 18-6-1965, Huyện ủy Thọ Xuân đã ra nghị quyết về chuyển hướng sự lãnh đạo của Đảng bộ trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra 3 nhiệm vụ trọng tâm là:

Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa. Mục tiêu toàn huyện đạt 5 tấn thóc trên một ha một năm. Duy trì, nhân rộng điển hình tiên tiến trên mặt trận sản xuất nông nghiệp.

Xây dựng lực lượng dân quân mạnh để phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn mục tiêu kinh tế, quốc phòng địa phương, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân.

- Tuyên truyền giáo dục toàn dân thấm nhuần đường lối “chiến tranh nhân dân” của Đảng, nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến.

Thực hiện nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí hàng hóa cho chiến trường phía Nam, trong khi hai tuyến giao thông đường bộ, đường sắt bị địch đánh phá ác liệt. Ngày 16-9-1965, Tỉnh ủy Thanh Hóa thành lập công ty Thuyền nan, gồm hơn 5.000 người và 2.500 chiếc thuyền nan, có trọng tải mỗi chiếc từ 2 - 2,5 tấn vận chuyển lương thực, hàng hóa từ Thanh Hóa vào Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, năm 1965, xã Thọ Hải có hàng trăm người vào bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân quốc phòng, thuyền nan, lâm nghiệp, cầu đường.

Để giải quyết nơi ăn ở, sinh hoạt cho thanh niên xung phong trên công trường, huyện Thọ Xuân cùng hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm và vận động nhân dân 20 xã quanh khu vực công trường cho mượn nhà.

Đảng bộ và chính quyền vận động hầu hết các làng- xóm cho thanh niên xung phong mượn nhà với số lượng lên đến hàng ngàn người. Hợp tác xã mua bán Thọ Hải không quản ngày đêm cung cấp rau xanh, thực phẩm cho công trường.

Đầu tháng 3-1965, được sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ xã Thọ Hải tiến hành Đại hội nhiệm kỳ 1965-1966, tham dự Đại hội có 103 đảng viên trong toàn xã. Đại hội kiểm điểm sâu sắc công tác trong nhiệm kỳ và đặt ra những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ tới, trước mắt thực hiện nghị quyết của Huyện ủy, trọng tâm trên 3 mục tiêu: Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất lúa và màu, đạt 5 tấn thóc/ha; Xây dựng và củng cố lực lượng dân quân tự vệ, phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần bảo thành công các mục tiêu kinh tế, quốc phòng, giao Bông vận tải trên địa bàn huyện; Đóng góp tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 7 đồng chí. Đồng chí Lê Xuân Vi được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Đinh Văn Lưu được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch ủy ban nhân dân xã; đồng chí Nguyễn Công Chức - Trực Đảng.

Nghị quyết Đại hội đã tập trung chỉ đạo xây dựng 4 hợp tác xã cấp làng lên hợp tác xã cấp cao; công hữu về ruộng đất, dụng cụ sản xuất, đồng thời phát động phong trào thi đua “Chống Mỹ cứu nước”, phấn đấu đạt 3 mục tiêu quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và phong trào thi đua “5 tấn thắng Mỹ”.

Mặc dù nằm trong vùng thường xuyên bị máy bay địch đánh phá (có ngày bị máy bay 8 lần đánh phá địa bàn xã và các khu vực lân cận), phần lớn lực lượng lao động trong các hợp tác xã đã ra mặt trận chiến đấu phục vụ chiến đấu, lực lượng dân quân ngoài trung đội dân quân trực chiến, các trung đội còn lại vừa sản xuất vừa chiến đấu, lại thường xuyên được điều động vào sân bay lấp hố bom, đắp ụ pháo, hầm trú ẩn máy bav.. sản xuất nông nghiệp gặp muôn vàn khó khăn. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, chính quyền và sự cố gắng của toàn dân, năng suất lúa bình quân trên 200kg/sào/vụ. Năm 1965, toàn huyện Thọ Xuân có 17 hợp tác xã đạt 5 tấn/ha, trong đó có hợp tác xã Hợp tác xã Đông Phương Hồng của Thọ Hải đạt năng suất 5 tấn/ha.

Chính sách hậu phương quân đội được Đảng bộ chính quyền hết sức quan tâm, nhất là đối với gia đình có người đi B, đi C, gia đình thương binh, liệt sỹ, già cả cô đơn.

Công tác văn hóa, giáo dục, y tế đều phát triển, đáp ứng nhu cầu của địa phương trong thời chiến.

Từ tháng 5-1965 đến tháng 6-1966, vừa thi công, vừa ngụy trang che mắt địch, vừa sản xuất vừa chiến đấu, sân bay quân sự Sao Vàng đã xây dựng thi công và đưa vào sử dụng. Từ đây, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải có thêm nhiệm vụ kết hợp với bộ phòng không, không quân chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn cho sân bay Sao Vàng.

Để bảo vệ an toàn cho sân bay Sao Vàng, Bộ quốc phòng đã tăng cường về huyện Thọ Xuân 1 Tiểu đoàn cao xạ 100mm, pháo cao xạ 57mm, cao xạ 37mm và súng 14,5ly. Dân quân trực chiến Thọ Hải được trang bị súng 14,5 ly, súng đại liên và súng trường.

Thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt, ngoài trung đội dân quân trực chiến đấu, các trung đội dân quân khác được kiện toàn, bổ sung biên chế thành mỗi hợp tác xã một trung đội vừa sản xuất vừa chiến đấu, sẵn sàng đi làm nhiệm vụ khi được cấp trên điều động. Ở mỗi đội sản xuất có một tổ cứu thương, tải thương, được tập huấn chuyên môn sẵn sàng làm nhiệm vụ.

Để có đủ nguồn thực phẩm cung cấp cho tiền tuyến, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã xây dựng Trại chăn nuôi. Vận động các hộ gia đình nuôi lợn thịt, lợn nái, gia cầm. Xây dựng được 4 trại lợn tập thể với số đầu lợn là 1.500 con.

Tiếp tục thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước ngày 12 và ngày 13 tháng 3 năm 1966, tại Thọ Trường,Huyện ủy và Ủy ban hành chính huyện đã tổ chức Đại hội nhân dân Anh hung chống Mỹ cứu nước tới dự có 600 đại biểu của 37 xã và đại diện các khối công nông binh toàn huyện đã về dự. Đại hội biểu dương thành tích lớn lao của nhân dân toàn huyện trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu, chào mừng đại biểu của 2 Hợp tác xã điển hình về thâm canh luá giỏi được Bác hồ gửi thư khen.

“Thân ái gửi xã viên và cán bộ hợp tác xã Đông Phương Hồng, xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa

Trong mấy năm qua, Đông Phương Hồng đã cố gắng xây dựng tốt hợp tác xã, áp dụng kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, cho nên đã đạt năng suất lúa khá cao, năm 1965 năng suất lúa cả năm đã đạt được 6.600 klo 1 hecta. Do đó đời sống xã viên đã được cải thiện, hợp tác xã đã bán thóc theo giá khuyến khích cho nhà nước nhiều hơn năm 1964 như vậy là tốt.

Bác rất vui lòng thay mặt  trung ương Đảng và chính phủ khen1 ngợi các xã viên và cán bộ Đông Phương Hồng đã ra sức thi đua tăng năng suất lúa.

Đó mới là thành tích bước đầu, xã viên và cán bộ không nên chủ quan thỏa mãn mà cần phải cố gắng hơn nữa, nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, đoàn kết chặt chẽ, thực hành dân chủ, tài chính công khai, nêu gương tiết kiệm, vượt mọi khó khăn, để đạt nhiều thành tích to lớn hơn nữa về các mặt như: chăn nuôi, hoa màu, …v.v làm được như vậy, hợp tác xã Đông Phương Hồng sẽ thiết thực góp phần vào công cuộc chống Mỹ cứu nước của toàn dân ta.”

Tháng 4-1967, được sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải được tiến hành, tham dự Đại hội có toàn thể đảng viên trong xã. Đại hội nhất trí đánh giá cao thành tích đã đạt được trong nhiệm kỳ, cả 3 lĩnh vực kinh tế, quốc phòng – an ninh và văn hóa xã hội. Đại hội đề ra nhiệm vụ trọng tâm:

Lực lượng dân quân vừa sản xuất vừa kết hợp với bộ đội chủ lực, dân quân đơn vị bạn chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đề cao cảnh giác, đảm bảo an toàn tài sản, tính mạng cho nhân dân, chi viện tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến.

Các hợp tác xã tiếp tục cải tiến công tác quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, phấn đấu toàn xã đạt 5 tấn thóc/ha. Đẩy mạnh công tác chăn nuôi tập thể, chăn nuôi ở các hộ gia đình để có thực phẩm cung cấp cho tiền tuyến.

Đại hội bầu ban chấp hành gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Thị Khếnh được làm Bí thư; đồng chí Lê Thị Vẽ làm Phó Bí thư - Chủ tịch; đồng chí Lại Xuân Ngọn - Trực Đảng.

Thực hiện mục tiêu nghị quyết Đại hội đại biểu Huyện Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ X và mục tiêu Đại hội Đảng bộ xã. Sau đại hội đảng bộ phát động phong trào “Chắc tay cày vững tay súng” và khẩu hiệu “Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”, không bỏ đất hoang, đất nghỉ; tăng cường nguồn phân bón, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất; đưa bộ giống mới có năng suất cao như Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8, Khe nam lùn… Ngâm lúa giống 3 sôi 2 lạnh, cấy lúa thẳng hàng… Khai thác đất đồi, bãi sông để trồng khoai lang, ngô, đậu tăng nguồn lương thực phụ. Phấn đấu đạt 5 tấn thóc, 10 tấn khoai lang và 2 con lợn trên một ha gieo trồng. Vụ mùa năm 1967, do thời tiết nắng hạn lâu ngày, gần hết thời vụ mà toàn huyện mới gieo cấy được hơn 30% diện tích chưa có nước tưới. Trước tình hình đó, Đảng bộ kêu gọi toàn dân ra quân làm thủy lợi, phấn đấu cấy hết diện tích; nạo vét kênh mương, tận dụng các nguồn nước. Mặc dù gặp khó khăn như thời tiết, máy bay địch đánh phá nhưng năm 1967, cả 7 hợp tác xã của Thọ Hải vẫn đạt 5 tấn thóc/ha.

Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, lại nằm trong vực máy bay địch thường xuyên đánh phá, được sự chi đạo của ủy ban Hành chính huyện Thọ Xuân, năm 1967, Trường cấp II Thọ Hải chính thức được thành lập, đủ 3 khối.

Cuối năm 1967, Đảng bộ xã Thọ Hải có 61,2% đảng viên, 29,6% chi bộ và 31% tổ đảng đạt danh hiệu 4 tốt. Kết nạp được 10 quần chúng ưu tú vào Đảng.

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, phần lớn lực lượng thanh niên và lao động chính trong các hợp tác xã đều lên đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ở hậu phương phần lớn còn lại là người già, phụ nữ và trẻ em. Thi đua với phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên, hội Phụ nữ Thọ Hải với phong trào “Ba đảm đang” đã đảm nhận mọi công việc ở địa phương để nam giới ra tiền tuyến. Nhiều chị em đảm nhận các chức vụ chủ chốt trong Đảng, chính quyền hợp tác xã.

Bước sang năm 1968, tình hình khách quan không thuận lợi, Thọ Hải đã tiến hành xong cải tiến hợp tác xã vòng 2. Cả 7 hợp tác xã đều tiến lên hợp tác xã bậc cao. Để đảm bảo phòng không, tránh tụ tập đông người trong sản xuất, đồng thời phát huy được nguồn lao động của người già và học sinh, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã tiến hành khoán nhóm và khoán công việc, về chăn nuôi triển đồng bộ giữa chăn nuôi tập thể và hộ gia đình. Mặc dù thời tiết không thuận lợi, điều kiện chiến tranh ác liệt ảnh hưởng lớn đến sản xuất, nhưng do áp dụng khoa kỹ thuật, gieo cấy đại trà giống lúa cho năng suất cao, vụ chiêm xuân năm 1968, các hợp tác xã bình quân đều đạt trên 205kg thóc/sào.

Tháng 3-1968, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải được tiến hành. Đại hội Ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Vẽ được bầu làm Bí thư; đồng chí Mai Đình Đồng được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch; đồng chí Lại Xuân Ngọn - Trực Đảng.

Năm 1966-1967: Ông Lê Văn Luyến làm chủ nhiệm, ông Nguyễn Ngọc Như làm Phó chủ nhiệm, ông Phùng Văn Thao làm phó chủ nhiệm, bà Nguyễn Thị Bảy A làm kế toán

Năm 1968-1969, bà Nguyễn Thị Bảy B làm chủ nhiệm, ông Nguyễn Ngọc Như làm phó chủ nhiệm: Ông Phùng Văn Thao làm phó chủ nhiệm, bà Nguyễn Thị Bảy A làm kế toán.

HTX Đông Phương Hồng được vinh danh là lá cờ đầu năm 1964 đến năm 1968 được các đồng chí lãnh đạo Nhà nước về thăm. Đồng chí đại tướng Nguyễn Chính Thanh 2 lần về thăm(năm 1964 và năm 1965). Đồng chí Tố Hữu về thăm năm 1965.

Trong 2 ngày 21 và 22-8-1968, đế quốc Mỹ mỗi ngày cho hàng chục lượt máy bay ném bom vào Phong Lạc (xã Nam Giang) và Nhà máy thủy điện Bàn Thạch (xã Xuân Quang) làm hai công trình hư hỏng nghiêm trọng. 6.000 ha lúa mùa của một số huyện đang thời kỳ trỗ bông bị mất nguồn nước tưới. Huyện ủy Thọ Xuân điều động hàng ngàn dân trong huyện nhanh chóng sửa chữa công trình. Lực lượng dân quân xã Thọ Hải không kể ngày đêm lao động hăng say trong điều kiện máy bay địch thường xuyên đánh phá, cùng với dân quân của cả huyện đúng một tuần đã hoàn thành việc tu sửa công trình. Ngày 2-9-1968, nước nông giang đã kịp tưới cho các cánh đồng khô cạn.

Trong 2 tháng 9 và 10-1968, đế quốc Mỹ điên cuồng cho tàu chiến, máy bay ném bom bắn phá miền Bắc. Thanh Hóa là trọng điểm. Sân bay quân sự Sao Vàng là mục tiêu liên tục bị máy bay địch oanh tạc. Dân quân Thọ Hải cùng dân quân các xã gần sân bay bất chấp bom đạn, san lấp hố bom bảo đảm đường băng cho máy bay của ta lên xuống an toàn; sửa chữa cầu đường đảm bảo giao thông thông suốt. Trung đội dân quân trực chiến đấu ngày đêm bám sát trận địa, kết hợp chặt chẽ với bộ đội pháo cao xạ bắn máy bay tầm thấp, tiếp đạn cho pháo, cứu chữa thương binh... góp phần hạn chế tối đa thiệt hại do máy bay địch gây ra.

Căm thù giặc Mỹ xâm lược, quân và dân tỉnh Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quyết tâm chiến đấu chiến thắng. 4 năm đọ sức với quân thù, quân và dân Thanh Hóa đã chiến đấu 9.009 trận, bắn rơi 276 máy bay, bắt sống 24 giặc lái, đánh chìm 5 tàu chiến, bắn cháy 26 tàu chiến các loại.

Cùng thời gian đó, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá xuống khu vực xã Thọ Hải làm chết 15 người, bị thương một số người, phá hoại nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân.

4. Tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tâp trung sức người, sức của giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1969 - 1975

Bước sang năm 1969, tình hình cách mạng trong cả nước có những chuyển biến mới, “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam đã hoàn toàn sụp đổ. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, đế quốc Mỹ tiếp tục tiến hành chiến tranh ở miền Nam bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với quy mô tàn bạo, đẫm máu hơn so với chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 15-2-1969, Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa ra nghị quyết: “… tích cực đảm bảo đáp ứng tốt mọi nhu cầu nhân lực cho sản xuất và chiến đấu trong giai đoạn quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để giành thắng lợi quyết định, chú trọng đảm bảo dành một lực lượng thích đáng cho giao thông vận tải, kiến thiết cơ bản, tranh thủ mọi thời cơ sửa chữa và xây dựng cầu đường trong tỉnh, sản xuất kịp thời các phương tiện vận tải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến…”.

Thực hiện nhiệm vụ của cấp trên Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải tranh thủ thời cơ thuận lợi, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh tế, văn hóa xã hội, xây dựng hậu phương vững chắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Đảng bộ đã chỉ đạo cho các cơ quan tổ chức như nhà trường, kho tàng, trạm xá, … từ nơi sơ tán nhanh chóng trở về địa điểm cũ, kịp thời đảm bảo công tác dạy và học, chữa bệnh cho nhân dân, bảo vệ an toàn tài sản của nhân dân, tài sản của tập thể và của Nhà nước. Rút lực lượng dân quân trực chiến trên địa bàn xã và các nơi về làm nòng cốt cho phong trào thâm canh tăng năng suất lúa và cây màu. Khơi dậy các phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, thực hiện khẩu hiệu “Lương không thiếu một cân, quân không thiếu  một người”.

Để đạt mục tiêu kinh tế, văn hóa xã hội đáp ứng cho nhu cầu hiện tại, Đảng bộ tổ chức học tập phương pháp thâm canh tăng nâng cao năng suất lúa của các hợp tác xã.

Tháng 3-1969, thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải được tổ chức. V dự Đại hội có toàn thể đảng viên trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm công tác trong nhiệm kỳ và đề ra mục tiêu, phương hướng nhiệm kỳ tới, đồng thời đề ra giải pháp thực hiện.

Đại hội bầu ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Vẽ được bầu làm Bí thư; đồng chí Mai Đình Đồng làm Phó Bí thư – Chủ tịch ủy ban nhân xã; đồng chí Lại Xuân Ngọn - Trực đảng.

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ XI và nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải, Đảng bộ và nhân dân trong xã không ngừng phấn đấu trên tất cả các mặt, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp các hợp tác xã đưa 80% giống mới vào gieo trồng, giải quyết tốt khâu thủy lợi. Trại chăn nuôi của hợp tác xã đã tăng tổng thể đàn lợn tăng lên hàng ngàn con; phát triển đàn lợn nái để cung cấp giống lợn con cho hợp tác xã, hộ xã viên. Năm 1969, trong điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, cả 7 hợp tác xã đều đạt năng suất gần 6 tấn/ha. Làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước hàng trăm tấn, 30 tấn thực phẩm, 11 tấn nông sản (lạc, đậu, vừng). Công tác an ninh trật tự được đảm bảo. Năm 1969, Thọ Hải có 14 thanh niên lên đường nhập ngũ. Các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục được Đảng bộ và chính quyền quan tâm.

Năm 1970, tình hình thời tiết không thuận lợi, đầu năm, giữa năm nắng hạn, cuối năm rét đậm, rét hại kéo dài, sâu bệnh phát sinh nhiều, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã thực hiện triệt để 3 khoán: Khoán nhóm, khoán công điểm và khoán công việc để tranh thủ thời gian, đưa năng suất lao động lên cao, đồng thời cử các đảng viên xuống cơ sở bám sát để chỉ đạo sản xuất. Năm 1970, bình quân năng suất lúa của các hợp tác xã chỉ đạt 5 tấn/ha. Tuy nhiên, đàn trâu bò và đàn lợn đều tăng mạnh. Đàn trâu bò, đàn lợn tăng đồng nghĩa với việc kinh tế tập thể gia đình tăng lên, tăng nguồn sức kéo và lượng phân chuồng bón cho đồng ruộng. Năm 1970, Thọ Hải làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước 519 tấn, hàng chục tấn lợn hơi và nông sản.

Năm 1970, trong 3 đợt tuyển quân, xã Thọ Hải có 27 thanh niên trúng tuyển vào bộ đội. Công tác văn hóa, y tế, giáo dục được quan tâm và phát triển, số học sinh cấp I và cấp II là 630 em.

Thắng lợi trên mặt trận sản xuất nông nghiệp có nhiều nguyên nhân, nhưng then chốt vẫn là khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, cấy đại trà giống mới như Nông nghiệp 8, Chân châu lùn. Các khâu thủy lợi, phân bón được chú trọng. Cuộc vận động cải tiến quản lý và tăng cường tinh thần làm chủ tập thể của các hợp tác xã đã đem lại kết quả. Việc ăn chia của nội bộ hợp tác xã, làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước, định ra phương hướng, nhiệm vụ từng khâu, từng việc làm của hợp tác xã đều được xã viên bàn bạc quyết định. Việc công khai tài chính, bảo vệ tài sản hợp tác xã được thực hiện tốt, công khai điểm, phân bón, sản phẩm ăn chia. Thực hiện nghiêm túc chế độ 3 khoán, 3 quản trong hợp tác xã đã làm xã viên yên tâm lao động sản xuất.

Năm 1971, huyện Thọ Xuân vinh dự được Trung ương chọn làm điểm xây dựng cấp huyện, tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh, Huyện ủy Thọ Xuân tiến hành điều tra xây dựng quy hoạch tổng thể. Toàn huyện được chia làm 3 vùng. Xã Thọ Hải thuộc vùng 1, vùng trọng điểm lúa và chăn nuôi lợn, cá. Nhưng do yếu tố địa lý nên có sức mạnh tổng hợp của 3 vùng: Đất hai vụ lúa, đất bãi trồng màu và đất trồng cây công nghiệp, Đảng bộ và chính quyền Thọ Hải đã tiến hành quy hoạch lại ruộng đất: Đất 2 vụ lúa, đất 1 vụ lúa 1 vụ màu và đất bãi phù sa phát triển cây lạc, xen vụ bằng cây ngô, khoai lang để phát triển chăn nuôi.

Đảng bộ chủ trương đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính. Bên cạnh đàn trâu bò, các trại căn nuôi lợn của hợp tác xã, Đảng bộ và chính quyền khuyến khích phát triển đàn trâu bò, đàn lợn, gia cầm của các hộ xã viên, thực hiện nhiều biện pháp động viên, khuyến khích như: Đổi thịt lợn hơi, trâu bò lấy lương thực, vật liệu xây dựng, đồ dùng gia đình, xe đạp, xe bò… Đảng bộ chủ trương phát triển ngành nghề, lò gạch, lò vôi, lò rèn để phục vụ sản xuất và nhà ở cho nhân dân.

Đảng bộ chỉ đạo Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục mở rộng phong trào “Ba sẵn sàng” làm nòng cốt trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và cách mạng khoa học kỹ thuật trên đồng ruộng. Hội phụ nữ đã phát huy truyền thống “Ba đảm đang”, là nguồn lao động chính ở địa phương, giữ vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp.

Tháng 3-1970, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải được tiến hành. Đại hội đánh giá cao thành tích đã đạt được trong trong sản xuất nông nghiệp, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Đại hội đề ra mục tiêu kinh tế xã hội 3 năm 1970 - 1973 và giải pháp thực hiện.

Đại hội cũng đi bầu ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lại Xuân Ngọn được bầu làm Bí thư; đồng chí Lê Thị Nhiên được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch; đồng chí Lê Xuân Vi - Trực Đảng.

Năm 1971, xã Thọ Hải đạt 6 tấn/ha, làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước 520 tấn; 24 tấn lợn hơi và 5 tia nông sản. Đàn trâu bò đạt 400 con, đàn lợn 1.300 con. tăng 5% so với năm 1970.

Hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu tuyển quân, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. An ninh trật tự được đảm bảo, đời sống xã viên được cải thiện.

Về giáo dục, năm học 1970-1971, xã Thọ Hải phát triển cả về số lượng và chất lượng. Học sinh Cấp I tốt nghiệp 88%; cấp II tốt nghiệp 78%; cấp III tốt nghiệp 82%.

Về công tác Đảng: Đảng bộ đã triển khai nhiều đợt sinh hoạt chính trị, đặc biệt là Nghị quyết 195 của Bộ Chính trị về Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh, qua đó, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng và hệ thống chính trị được cảng cao một bước.

Tuy tổng thống Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam và đến hội nghị Pari đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhưng cùng với việc đẩy mạnh “Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam, đế quốc Mỹ lén lút tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bẩc bằng không quân và hải quân, cụ thể là:

Tháng 5-1970, đế quốc Mỹ đã cho máy bay ném bom ở một số nơi thuộc khu IV, đưa nhiều toán gián điệp, biệt kích thâm nhập vào miền Bắc Việt Nam.

Từ tháng 2 đến tháng 12-1971, có tới hàng ngàn lượt tốp máy bay địch xuất kích đánh phá miền Bắc và tàu chiến bắn phá vào Quảng Bình, Nghệ An.

Ngày 26-12-1971, địch cho 13 máy bay bân phá vào Hàm Rồng, bệnh viện tỉnh và các khu vực lân cận. Lực lượng vũ trang Hàm Rồng đã bắn rơi 2 máy bay Mỹ. Đó là chiếc máy bay thứ 100 và 101 bị bắn rơi Hàm Rồng, Thanh Hóa.

Tháng 01-1972, Tỉnh ủy Thanh Hóa chỉ thị Đảng bộ, lực lượng vũ trang nhân dân trong tỉnh “Tăng cường mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu hoạt động chiến tranh bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ...”.

Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo thành lập Ủy ban phòng không các cấp và cử đồng chí Trịnh Ngọc Bích - Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch ủy ban Hành chinh tỉnh làm Trưởng ban.

Đầu năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã chuyển sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ vì thua đau ở chiến trường miền Nam đã tiếp tục ném bom trở lại miền Bắc. Sau hơn 3 năm tạm yên tiếng bom đạn, giờ đây nhân dân Thọ Xuân nói riêng và nhân dân miền Bắc nói chung lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại lần 2, có phần gay go ác liệt hơn. Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ. chính quyền và nhân dân xã Thọ Hải nhanh chóng triển khai công tác phòng không, đặt các trạm báo động phòng không, tổ chức sơ tán trường học, kho tàng của hợp tác xã vào nơi an toàn, di tản nhưng tụ điểm đông người như chợ Đường, bến đò, hợp tác xã mua bán. Chỉ một thời gian ngắn, cả xã đã đào được hàng ngàn hầm chữ A, hầm cá nhân, đào hàng ngàn mét giao thông hào.

Lực lượng dân quân được kiện toàn, bổ sung vũ khí sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Công tác bảo mật phòng gian được nâng cao một bước. Mọi hoạt động trong xã đều chuyển từ thời bình sang thời chiến.

Đêm 12 rạng sáng ngày 13-4-1972, máy bay B52 của Mỹ ném bom rải thảm xuống khu vực Xuân Hưng, Xuân Thắng, sân bay Sao Vàng và làng Diên Hào (Thọ Lâm) làm tổn thất nhiều người, nhà cửa và tài sản của nhân dân.

Đứng trước tình hình mới, cấp trên đã chỉ đạo Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải tháng 3-1972, Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Thọ Hải được khai mạc. Đại hội đề ra nghị quyết gồm 4 nhiệm vụ chính:

Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu. Vì vậy, phải làm tròn trách nhiệm của hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ vừng mạnh. Nàng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch.

Phát triển kinh tế địa phương mạnh mẽ, vững chắc và toàn diện, chú trọng thâm canh lúa, màu, cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính. Phát triển hàng tiểu thủ công nghiệp, làm nhiều hàng hóa để tăng nguồn xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Đẩy mạnh và phát triên sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế, góp phần nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân.

Xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt: Tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo và phẩm chất cách mạng.

Đại hội đã bầu ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Vẽ được bầu làm Bí thư; đồng chí Mai Đình Đồng được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch; đồng chí Lê Xuân Vi - Trực Đảng.

Thực hiện nghị quyết của Đảng cấp trên và Nghị quyết Đảng bộ xã trong điều kiện chiến tranh, lực lượng thanh niên và lao động chính đã lên đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhưng với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, áp dụng khoa học kỹ thuật vào thâm canh lúa, hoa màu; chủ động tưới tiêu, đưa 100% giống mới vào gieo trồng trên đồng ruộng. Đảng bộ tập trung chi đạo hợp tác xã thủ công nghiệp, tìm nguồn nguyên vật liệu, tập trung xã viên, lực lượng học sinh, người già sản xuất ra nhiều sản phẩm xuất khẩu, đáp ứng xuất khẩu và tiêu dùng cho nhân dân, chủ yếu là đan cót, chóc bẹ ngô, nghề rèn... Năm 1972, Thọ Hải đạt trên 6 tấn thóc và 2,1 con lợn/ha gieo trồng. Vchăn nuôi đàn trâu bò, đàn lợn tăng 5,3% so với năm 1971.

Vvăn hóa xã hội: Năm 1972, trạm y tế xã đã có 4 cán bộ nhân viên có trình độ y sĩ, y tá và mạng lưới cán bộ vệ sinh viên xuống tận các làng. Phong trào xây dựng vệ sinh hai ngăn phát triển. Công tác vệ sinh phòng bệnh được chú trọng; đội ngũ cứu thương được củng cố, mỗi làng đều có giếng nước sạch. Đội thông tin tuyên truyền của xã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Vgiáo dục, mặc dù nằm trong vùng máy bay địch thường xuyên hoạt động, trường cấp 1 và cấp II phải sơ tán, dụng cụ dạy học thiếu thốn, Đảng bộ và chính quyền hết sức quan tâm, đắp thành đất xung quanh lớp học, đào hầm trú ẩn, giao thông hào đảm bảo việc dạy và học trong các nhà trường. Năm 1972, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp và lên lớp đạt cao.

Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt trên toàn miền Bắc. Lần này Mỹ huy động một lực lượng không quân lớn để đánh phá cả miền Bắc và miền Nam. Từ 650 máy bay thuật lên 1.300 chiếc, từ 90 máy bay ném bom lược B52 lên 150 chiếc.

Từ ngày 26-12-1971, khi địch tiến công đánh phá Hàm Rồng và sau đó là các trọng điểm khác, trong đó Sao Vàng và các vùng phụ cận là mục tiêu đánh phá lớn của địch.

Lực lượng dân quân xã Thọ Hải ngoài trung đội trực chiến, các trung đội còn lại vừa sản xuất vừa chiên đấu, phối hợp với dản quân các xã bạn tiếp đạn cho các mâm pháo cao xạ, san lấp hố bom trong sân bay, đam bảo cho hoạt động của sân bay.

Ngày 20-5-1972, Tỉnh ủy, ủy ban Hành chính tỉnh Thanh Hóa ra Chỉ thị cho các cấp, các ngành “... dù địch đánh phá ác liệt đến đâu, hay có thiẻn tai nặng, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa quyêt tâm đảm bảo giao thông liên tục...”. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy và ủy ban hành chính tỉnh, tham gia chiến dịch “giao thông quyết thắng (sau đổi là chiến dịch vận tải 19-8)”, Thọ Hải có đoàn xe thồ, thời gian 3 tháng phục vụ vùng giáp tuyến Quảng Bình, Quảng Trị. Thanh niên xung phong làm đường 217, làm đường ở Hà Tĩnh. Quảng Bình với quân số vài chục người.

Từ tháng 12-1971 đến ngày 15-01-1973, đế quốc Mỹ đã sử dụng 9.102 lần chiếc máy bay các loại, trong đó có 102 lần chiếc B52, đánh phá 1.932 trận vào 762 mục tiêu và sử dụng 1.971 lần chiếc tầu chiến bắn phá hàng ngàn lần vào đất liền tỉnh ta. Quân và dân Thanh Hóa đã  đánh địch 969 trận, bắn rơi 92 máy bay phản lực (trong đó có 3 máy bay B52). Trong chiến thắng vang dội của quân và dân Thanh Hóa, có sự đóng góp tích cực của Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải.

Bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu khỏi miền Nam Việt Nam.

Hòa bình lập lại trên miền Bắc, Đảng bộ và chính quyền xã Thọ Hải chỉ đạo nhân dân trở lại lao động sản xuất, mọi hoạt động trở lại bình thường. Các cơ quan, trường học từ nơi sơ tán nhanh chóng trở về địa điểm cù, củng cố lại kho tàng, sân phơi của các hợp tác xã; tập trung chăm bón, phòng trừ sâu bệnh cho vụ chiêm xuân, đảm bảo sản lượng, năng suất; phát triển chăn nuôi cả hai lĩnh vực tập thể và hộ gia đình. Năm 1972-1973: Ông Lại Xuân Ngạn làm chủ nhiệm, ông Nguyễn Xuân Ái làm phó chủ nhiệm, Ông Phùng Văn Thao làm phó chủ nhiệm, bà Nguyễn Thị Hằng kế toán trưởng

Đầu năm 1973, Huyện ủy Thọ Xuân đã họp bàn đề án xây dựng cấp huyện và phát động “phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa” được lực lượng quân dân xã Thọ Hải và dân quân trong huyện hưởng ứng mạnh mẽ.

Tháng 6-1973, huyện mở “Hội trại Lam Sơn" và phát động chiến dịch "Sông Chu nổi sóng" tiến công vào chiến dịch thủy nông, có sự tham gia trực tiếp của đồng chí Bí thư Huyện ủy và đồng chí Chủ tịch ủy ban hành chính huyện. Lực lượng dân quân và thanh niên được tổ chức thành 3 sư đoàn và 5 trung đoàn. Chỉ trong vòng 15 ngày, với tinh thần “Quế Sơn kiên cường xây dựng quê hương giải phóng, Thọ Xuân quật khởi tiến vào mặt trận thủy nông”, toàn huyện huy động hơn một triệu ngày công, đào đắp 925.427m3 đất, hoàn chỉnh hệ thống thủy nông trong huyện. Thọ Hải đóng góp hàng vạn ngày công với gần 10.000m3 đất đào đắp.

Vụ mùa năm 1973 là vụ hết sức khó khăn đối với sản nông nghiệp của xã Thọ Hải. Từ tháng 7 đến tháng lụt bão liên tiếp xảy ra. Lũ lần trước rút ra chưa hết, lũ sau lại tràn về. Lúa và hoa màu thiệt hại nặng nề. lớn nhân dân hai làng Quần Lai và Quần Đội ở ngoài đê, nhà cửa ruộng vườn ngập trong nước lũ dài ngày. Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.

Trước tình hình đó, cấp trên đã chỉ đạo Thọ Hải tiến hành Đại hội vào tháng 3-1973,về dự đại hội có tất cả các đảng viên trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm công tác nhiệm kỳ, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đề ra chủ trương, nhiệm vụ hai năm 1973-1974, trọng tâm là: Tập trung đầu tư cho nông nghiệp; thâm canh tăng năng suất lúa, cây màu và cây công nghiệp để nâng cao đời sống cho nhân dân. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi ở cả hai lĩnh vực tập thể và hộ gia đình. Chuẩn bị điều kiện để tháp nhập các hợp tác xã nông nghiệp thành hợp tác xã cấp cao toàn xã. Chi viện tối đa sức người, sức của cho chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Vẽ đuợc bầu làm Bí thư Đảng ủy xã; đồng chí Mai Đình Đồng làm Phó Bí thư phụ - Chủ tịch; đồng chí Lê Xuân Vi - Trực Đảng.

 Mặc dù năm 1973 gặp khó khăn do lũ lụt gây ra nhưng Thọ Hải vẫn làm đủ nghĩa vụ lương thực và thực phẩm cho Nhà nước. Do làm tốt chính sách hậu phương quân đội, tuyên truyền vận động 16 thanh niên lên đường nhập ngũ chiến đấu.

Năm 1974, Thọ Hải làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước 525 tấn. Thực hiện Nghị quyết 19, 20, 21, của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị số 208. Về chủ trương kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý sản xuất từ huvện xuống cơ sở. Theo phương hướng Trung ương chọn Thọ Xuân là một trong 5 huyện làm điểm trong đó có Hợp tác xã Đông Phương Hồng.

Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương và tỉnh. Thọ Xuân thành lập hệ thống trạm, trại; Trạm vật tư nông nghiệp, trạm máy kéo, trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật. trạm lâm nghiệp... đã tăng cường cơ sở vật chất, khoa kỹ thuật cho các hợp tác xã, góp phần hình thành 3 sản xuất trên địa bàn huyện theo hướng tập trung thâm canh và chuyên canh. Cuối năm 1974, đầu năm toàn huyện có 74 hợp tác xã tổ chức lại còn 38 hợp tá xã quy mô toàn xã.

Được sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ và chính quyền xã Thọ Hải mở đợt học tập Chỉ thị 209 về Điều lệ chi tiết hợp tác xã nông nghiệp cấp cao. Mở đợt thu hồi công nợ của Hợp tác xã, tài sản và ruộng đất bị lấn chiếm.

Đợt học tập chỉ thị 209 và cuộc vận động ở Thọ Hải đã đem lại nhiều kết quả. Xã viên nâng cao ý thức làm chủ tập thể, mọi người phấn khởi hăng hái lao động sản xuất, tích cực đóng góp xây dựng hợp tác xã với tinh thần “Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”.

Sau đợt học tập Chỉ thị 209, Đảng bộ xã Thọ Hải phát động 4 chiến dịch “5 mũi tiến công” do Huyện ủy phát động: Tiến công vào mặt trận thủy lợi hoàn chỉnh thủy nông; tiến công vào nhiệm vụ tuyển quân chi viện cho tiền tuyến; tiến công vào trận địa khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới; tiến công vào quản lý xã hội, quản lý thị trường; tiến công vào vụ đông, bèo hoa dâu và phân bón. Chiến dịch đã lan rộng thành phong trào toàn xã ở Thọ Hải lên một vị thế mới trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Tháng 3-1974, thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải được tiến hành nhiệm kỳ 1974 - 1975. Đại hội tiến hành kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị 209 củaTrung ương, thực hiện 5 mũi tiến công do Huyện ủy phát động.

Đại hội đề ra một số mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt; Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thủy nông, áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lúa và hoa màu. Đẩy mạnh và phát triển chăn nuôi ở cả hai lĩnh vực tập thể và hộ gia đình. Nâng cao đời sống nhân dân. Hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu tuyển quân, chi tiêu lương thực, thực phẩm và những công việc đội xuất khác.

Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 9 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Vẽ đuợc bầu làm Bí thư Đảng ủy xã; đồng chí Mai Đình Đồng làm Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã; đồng chí Lê Xuân Vi - Trực Đảng.

Cuối năm 1974, thế và lực của ta trên chiến trường miền Nam đã thay đổi có lợi cho ta. Bộ Chính trị quyết định tổng động viên sự nỗ lực của nhân dân cả nước tiến hành tổng  tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trước yêu cầu của đất nước tháng 12-1974, Đảng bộ xã Thọ Hải chỉ đạo 4 hợp tác xã: Đông Phương Hồng, Quyết Tiến, Tân Trào hợp nhất thành hợp tác xã cấp cao xã Thọ Hải. Thực hiện dân chủ, các chức danh chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, ủy viên ban chủ nhiệm. Tháng 7 năm 1973 - 1974, Đại hội Đảng bộ ra Nghị quyết tháp nhập tất cả các HTX trong xã thành HTX Đông Phương Hồng xã Thọ Hải. Ông Lê Văn Luyến được bầu làm chủ nhiệm, ông Lại Xuân Ngạn làm phó chủ nhiệm, ông Phùng Văn Thao làm phó chủ nhiệm, bà Lê Thị Hằng làm kế toán trưởng

Tiến lên hợp tác xã bậc cao toàn xã có điều kiện thuận lợi để thâm canh tăng năng suất lúa và hoa màu, đồng thời phân vùng ruộng đất để xã viên canh tác, vận chuyển lúa và hoa màu tốt hơn.

Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định giải phóng miền Nam vào năm 1975. Thực hiện đường lối của cấp trên Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đã huy động cao nhất, nhiều nhất tiềm lực của hậu phương để góp chi viện cho tuyền tuyến lớn miền Nam. Mỗi gia đình, mỗi chi bộ Đảng, các tổ chức đoàn thể đều động viên con em, người thân của mình ra mặt trận. Đợt tuyển quân tháng 2-1975, Thọ Hải hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu nhập ngũ. Nhiều gia đình có 2 -3 con vào bộ đội.

Thực hiện lệnh Tổng động viên trên cả nước, lớp lớp thanh niên Thọ Hải lên đường đánh Mỹ, vào thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, trao lại tay cày tay cuốc cho người hậu phương mà phần lớn là phụ nữ, chị em đảm đang việc nhà, việc tập thể, việc xã hội để chồng con yên tâm lên đường chiến đấu, nhiều chị là đảng viên, cán bộ chủ chốt của địa phương, cán bộ hợp tác xã và trong nhiều lĩnh vực khác.

Từ năm 1967-1973, mặc dù điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng với tinh thần ‘Thương người như thể thương than” nhân dân xã Thọ Hải đã đón hàng trăm cháu học sinh K8 Quảng Bình, Vĩnh Linh về nuôi dưỡng như người thân trong gia đình.

Từ năm 1965-1975, xã Thọ Hải đã đóng góp cho Nhà nước 4.970 tấn lương thực, 220 tấn lợn hơi và Hàng trăm tấn nông sản khác (lạc, đậu, vừng).

 Trong ngày vui chiến thắng, đất nước rợp bóng cờ hoa, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải ngậm ngùi thương tiếc 72 liệt sĩ, những người con ưu tú của quê hương đã ngã xuống trên các chiến trường vì độc lập, bệnh binh đã trở về quê hương trong sự đùm bọc, giúp đỡ của Đảng bộ và nhân dân. Các anh chị lại đem phần lớn sức khỏe còn lại của mình hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội.

Lực lượng dân quân xã Thọ Hải là lực lượng vũ trang tại chỗ, vừa sản xuất vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Lúc thấp nhất cả xã có 1 trung đội, khi cao nhất có 5  trung đội. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại: Mỹ, lực lượng dân quân đã phối hợp chặt chẽ bộ đội chủ lực chiến đấu nhiều trận, san lấp hố bom trong sân bay Sao Vàng, đắp ụ pháo, tải đạn, cứu thương... góp phần bảo vệ thành công các mục tiêu kinh tế, giao thông vận tải, quốc phòng trên địa bàn huyện.

Do có nhiều công lao đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có 224 Huân chương, 165 Huy chương và nhiều Bằng khen, Giấy khen khác.

Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, Thành phố Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn giải phóng, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta kết thúc thắng lợi. Niềm vui miền Nam giải phóng, giang sơn thu về một mối thống nhất đã tràn ngập khắp các thôn xóm đến từng gia đình xã Thọ Hải.

Từ năm 1954-1975, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử với những nhiệm vụ cụ thể khác nhau nhưng đều nhất quán thực hiện hai mục tiêu cách mạng là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước.

Trong 21 năm, Chi bộ, Đảng bộ xã Thọ Hải đã lãnh đạo nhân dân khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đem lại ruộng đất cho nông dân, xây dựng quan hệ sản xuất mới dựa trên hai hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân và tập thể; thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, góp phần xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành căn cứ địa của cách mạng cả nước. Các hợp tác xã nông nghiệp được thành lập và củng cố, tạo cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng xã Thọ Hải vượt hoàn thành mọi nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước.

Từ năm 1954-1975, cùng với cả nước Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đã thực hiện cuộc hành trình vô cùng gian khổ. Từ một vùng quê nghèo đói sau kháng chiến, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân ổn định đời sống, thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể. Trong chặng đường ấy, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khó, với truyền thống của quê hương vùng đất địa linh nhân kiệt, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ, xã Thọ Hải đã vươn lên là một địa phương có phong trào mạnh cả nước học tập và làm theo như Đông hương Hồng đã được vinh danh là lá cờ đầu năm 1964 đến năm 1968 được các đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước về thăm. Đồng chí đại tướng Nguyễn Chính Thanh 2 lần lên thăm (năm 1964 và năm 1965). Đồng chí Tố Hữu về thăm năm 1965 đó là niềm tự hào của nhân dân Thọ Hải nói riêng và Thọ Xuân nói chung.. Vừa đẩy mạnh sản xuất góp phần xây dựng hậu phương lớn miền Bắc làm chỗ dựa cho chiến trường, tích cực đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Hàng trăm tấn thóc đã được gửi ra chiến trường, hàng trăm lượt thanh niên lên đường nhập ngũ, vào thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến. Nhiều người đã hiến dâng xương máu và tuổi thanh xuân của mình cho độc lập, tự do của dân tộc, để cùng cả nước viết nên bản anh hùng ca đại thắng mùa xuân năm 1975. Đó là niềm tự hào, là hành trang để Đảng bộ và nhân dân  xã Thọ Hải tiếp tục chặng đường mới với đầy gian nan, thử thách.

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương IV

ĐẢNG BỘ THỌ HẢI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG XÃ CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỤNG, THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CÔNG NGHIỆP HÓA NÔNG THÔN VÀ BẢO VỆ TỐ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 2017)

I. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 - 1985)

1. Đảng Thọ Hải lãnh đạo nhân khắc phục hậu quả chiến tranh 1975 -1980

Hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng nước ta bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ đất nước độc lập, nhân dân ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, hai miền Bắc - Nam thống nhất tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải phấn khởi, tự hào bước vào giai đoạn cách mạng mới, ổn định tình hình sau chiến tranh, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương trong hòa bình, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài những thuận lợi cơ bản, Thọ Hải còn gặp không ít những khó khăn. Đó là tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ đã gây nhiều trở ngại cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên còn phổ biến. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành sản xuất của Đảng bộ còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Những khó khăn, hạn chế đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải phải kiên trì tăng cường đoàn kết, thống nhất để từng bước khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất.

Tháng 9-1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 24 và ra Nghị quyết về “nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Từ thực tiễn của đất nước, hệ thống cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng được củng cố, kiện toàn là một bước thuận lợi về mặt tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ đối với quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy Thọ Xuân. Thực hiện chủ trương đường lối của cấp trên nhân dân Thọ Hải quyết tâm từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, đưa phong trào sản xuất và đời sống của nhân dân từng bước được nâng lên.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ cấp trên, Đảng bộ xã Thọ Hải đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất tiết kiệm. Thực hiện chiến lược “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân” và hưởng ứng cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất của cả nước. Trong niềm phấn khởi chung, nhân dânThọ Hải ra sức xây dựng quê hương mình xứng đáng là mảnh đất địa linh nhân kiệt.

Thực hiện mệnh lệnh của cấp trên tháng 36-1976, Đại hội Đảng bộ Thọ Hải lần thứ XV, nhiệm kỳ 1976 – 1978, tham dự Đại hội có 108 đồng chí. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ, những mục tiêu kinh tế - xã hội sát với tình hình thực tiễn của xã và ra Nghị quyết:

“Củng cố xây dựng hợp tác xã nông nghiệp vừa hợp nhất ở quy mô toàn xã. Xây dựng phương hướng cho sản xuất nông nghiệp. Phân vùng trồng lúa, trồng khoai vụ đông, mở rộng diện tích trồng màu và cây công nghiệp. Phát triển chăn nuôi, đầu tư vốn cho chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính.

Về thủ công nghiệp: Củng cố quản lý phát triển nghề sản xuât vật liệu xây dựng, xay xát phục vụ chăn nuôi.

Củng cố và quản lý tốt hợp tác xã thủ công nghiệp Đông Phương Hồng, tạo điều kiện để hợp tác xã này hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội đề ra. Hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất hàng xuất khẩu, cải thiện đời sống xã viên.

Đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực trong xã hội, giữ gìn an ninh chính trị - xã hội trong phạm vi hợp tác xã quản lý.

Song song với phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân, hoàn thành xuất sắc các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo các chỉ tiêu về tuyển quân, về lương thực - thực phẩm, về an chính trị”.

Đại hội còn bàn đến những công tác khác như việc giải phóng lòng sông Chu,  bước đầu quy hoạch lại toàn xã; hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ hợp tác xã nông nghiệp.

Đại hội cũng đã bầu ra ban chấp hành gồm 13 đồng chí. Đồng chí Mai Đình Đồng được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Thị Khương được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Phùng Văn Thao được bầu làm trực Đảng. 

Tháng 12-1978, tập đoàn phản động Pôn pốt - Yêngxari huy động 19 sư đoàn có pháo và xe tăng, thiết giáp yểm trợ, tiến công lấn chiếm lãnh thổ nước ta. Đồng thời phía Trung Quốc cũng có nhiều hành động khiêu khích quân sự dọc biên giới phía Bắc, cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước. Đầu năm 1979. Trung Quốc đã huy động hơn 60 vạn quân tấn công nước ta, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung sức người, sức của, quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tiếp đó, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra lệnh tổng động viên trong cả nước.

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, quân sự mới, hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, Đảng bộ xã Thọ Hải đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng bộ tăng cường công tác quân sự địa phương, giáo dục tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ vững chắc địa bàn xã. Trong những ngày này, không khí sẵn sàng chiến đấu để chiến thắng với bất kỳ giá nào đã được phát động mạnh mẽ, rộng khắp giống như thời chống Mỹ.

Khi đất nước đứng trước họa ngoại xâm thì tinh thần yêu nước của nhân dân ta lại bùng lên mãnh liệt, không khí căm thù quân xâm lược lại dấy lên trong khắp các thôn xóm. Trong bối cảnh mới, thanh niên xã Thọ Hải sẵn sàng tham gia quân đội bảo vệ Tổ quốc, phụ nữ sôi nổi phát huy truyền thống “Ba đảm đang”, sẵn sàng nhận mọi việc nếu người thân lên biên giới. Trước tình hình thực tế của đất nước, có nhiều đồng chí vừa được phục viên sau ngày miền Nam giải phóng, lại một lần nữa tạm biệt người thân và quê hương lên đường cầm súng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc xã Thọ Hải có hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, trong đó có nhiều người đã anh dũng hy sinh, người để lại một phần sương máu trên chiến trường, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Công tác đoàn thể trong những năm 1976-1979, được Đảng bộ chú trọng chỉ đạo nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết đại đoàn kết, thành công đại thành công”, các tổ chức quần chúng đã phát huy sức mạnh nhân dân thông qua các phong trào. Hội Nông dân xã đã động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nhiều hội viên giành được danh hiệu lao động tiên tiến. Hội Phụ nữ đã đi đầu trong các phong trào sản xuất nông nghiệp, tham gia lực lượng dân quân tự vệ, động viên chồng con tự nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc. Đoàn Thanh niên với phong trào “Ba xung kích” đã phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt. Trong nông nghiệp, lâm nghiệp, Đoàn đã đi đầu thực hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, động viên thanh niên, nam nữ tham gia tòng quân bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, còn chăm lo bồi dưỡng giáo dục cho thế hệ thiếu niên nhi đồng, phát động phong trào “Tuổi nhỏ làm nghìn việc tốt trong học tập và trong lao động sản xuất”.

Xây dựng một bước cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mở trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công nông nghiệp.

 Cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thực hiện chủ trương của Đảng cấp trên, tháng 3-1978 Đảng bộ xã Thọ Hải đã tiến hành Đại hội Đại biểu lần thứ XV. Nghị quyết Đại hội đã xác định:“Phải tích cực tiến hành cuộc vận động tổ chúc lại sản xuất và cải tiến quản lí ở tất cả các hợp tác xã, các ngành. Nhanh chóng làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế nông nghiệp trong huyện, tạo thế đi lên đồng đều phong trào thâm canh, đẩy mạnh sản xuất vụ đông đi đôi với khai hoang phục hóa mở rộng diện tích canh tác, đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, giải quyết vấn đề về lương thực, thực phẩm và nông sản hàng hóa, nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng khó khăn về lương thực, thực phảm, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa XHCN, thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng”.

Đại hội cũng đã bầu ra ban chấp hành gồm 13 đồng chí. Đồng chí Vũ Trung Nguyên được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Thị Khương được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Lại Xuân Năm được bầu làm trực Đảng. 

Năm 1978, dưới ánh sáng của Đại hội Đại biểu toàn lần thứ IV, Đại hội lần thứ XV của xã, Đảng bộ và nhân dân Thọ Hải cùng với nhân dân cả huyện đã trải qua những ngày cách mạng sôi nổi cuộc vận động tổ chức lại sản xuất.

Phong trào thi đua sản xuất tiết kiệm của xã Thọ Hải đạt nhiều thắng lợi. Công tác thủy lợi được chú trọng đúng mức. Các đoàn dân công sông Lý, sông Hoàng của xã Thọ Hải đã góp phần tích cực vào việc sửa chữa, xây dựng hoàn thành các công trình lớn của huyện, của tỉnh.

Trong phạm vi xã năm 1978, Thọ Hải đã đào đắp được 2.800 m3 đất, xây dựng thêm 20 công trình tưới tiêu chủ động cho 100 ha ruộng cấy, Thọ Hải đã cơ bản hoàn thành hệ thống mương máng với 185 công trình bằng 7.250 ngày công và 45.000 m3 đất, tưới tiêu chủ động cho 150 ha ruộng đất của cả 12 đội sản xuất.

Quyết tâm của Đảng bộ và chính quyền xã cũng là để thực hiện nguyện vọng của quần chúng nhân dân nên công tác này đã hoàn thành nhanh gọn trong vòng 3 tháng. Các hộ chuyển cư nhanh chóng ổn định đời sông, xây dựng nhà cửa khang trang, to đẹp hơn nhà cũ.

Trong hai năm 1978-1980, trên mặt trận sản xuất nông nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách do sự khắc nghiệt của thiên tai, nhưng Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải với sức mạnh tổng hợp của một nền kinh tế nông nghiệp tập thể hóa không ngừng phấn đấu tiếp tục đưa sản xuất tiến lên giành nhiều thắng lợi mới.

Đảng bộ xã đã phát động quần chúng kiên quyết đẩy mạnh sản xuất, cải tiến kỹ thuật để đưa Đông Phương Hồng ngày càng phát triển. Chỉ trong khoảng 4 tháng, xã Thọ Hải đã sản xuất được 554 tấn khoai, số khoai này không những giải quyết được nạn đói giáp hạt năm 1979 mà còn dư cho các xã khác vay và bán cho Nhà nước.

Từ năm 1979 trở đi, vụ khoai lang đông trở thành vụ chính. Việc trồng khoai đông trở thành quy trình sản xuất của hợp tác xã.

Thực hiện chủ trương của cấp trên tháng 5-1981, Đại hội Đảng bộ Thọ Hải được tiến hành tại hội trường xã. Tham dự Đại hội có tổng số 153 đảng viên của Đảng bộ.

Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, các mục tiêu cụ thể:

“Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Hợp tác xã đo đạc lại ruộng đất, khoanh vùng sản xuất xác định cây, con đề ra các mục tiêu kinh tế, giao lại cho các đội sản xuất thực hiện. Hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Đảm bảo chỉ tiêu hàng năm về tuyển quân. Cải thiện đời sống nhân dân, tích lũy một phần để dần dần hoàn chỉnh cơ sở vật chất như trạm nghiền, ao cá, hệ thống chuồng trại chăn nuôi, nhà kho sân phơi, hệ thống truyền thanh...

Tiếp tục xây dựng hợp tác xã Thủ công nghiệp, tạo điều kiện cho hợp tác xã này sản xuất hàng xuất khẩu thường xuyên.

Đại hội cùng đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Mai Đình Đồng được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Trịnh Hải Hòa được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Phùng Văn Thao được bầu làm trực Đảng.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XV của xã, thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp, Đảng bộ xã Thọ Hải đã nghiêm túc triển khai thực hiện. Chính vì vậy, năng suất lao động xã hội đều tăng hơn trước. Đời sống vật chất của nhân dân lao động từng bước được cải thiện. Năm 1981, diện tích gieo trồng đã đạt 654,5 ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 1.570,7 tấn.

Thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tư tưởng, Đảng bộ xã Thọ Hải đã quán triệt hơn nữa Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Kiên quyết sửa chữa những thiếu sót trong việc điều hành quản lý lao động, sức kéo, giống... Đặc biệt, Đảng bộ đã tiến hành kiện toàn về tổ chức từ cơ sở, đến chính quyền và cấp ủy Đảng theo Chỉ thị 06 của Thường vụ Huyện ủy nên diện tích gieo trồng đã ngày một tăng 592.2 ha. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn thiếu sót trong công tác khoán sản phẩm nhưng ở xã Thọ Hải thời kỳ này đã bảo đảm được 3 lợi ích: Lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động.

Về thực hiện nghĩa vụ lương thực và thực phẩm đối với Nhà nước hằng năm xã Thọ Hải đều làm tốt. Riêng năm 1985, nghĩa vụ lương thực và thực phẩm của xã Thọ Hải là: Vụ Chiêm 315 tấn lúa; vụ Mùa 204 tấn lúa. Thực phẩm cả năm là 23,5 tấn thịt lợn.

Thực hiện Chỉ thị 208 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết số 61 của Chính Phủ, hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán ở xã Thọ Hải vào thời điểm này không còn phù hợp nên đã tạm ngừng hoạt động.

Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên về sản xuất nông nghiệp, nhiều xã viên của các hợp tác xã tích cực lao động sản xuất, thực hiện nhiệm vụ của từng đội và nghị quyết của Đảng bộ xã. Hợp tác xã tổ chức cho xã viên khai hoang, phục hóa nhiều diện tích đất còn đang bỏ hoang nhằm mở rộng diện tích gieo trồng, tăng sản lượng lương thực, thực phẩm...

 Để hỗ trợ cho sản xuất đạt năng suất cao nhất, xã Thọ Hải đã đầu tư vào việc tu sửa, nâng cấp, xây dựng mới hệ thống cơ sở vật chất như thủy lợi, cải tạo ruộng đồng, tu sửa các bai đập, đường giao thông liên thôn, giao thông nội đồng phục vụ cơ giới hóa trong nông nghiệp. Một số nhà kho, khu ủ giống cũng được xây dựng. Đảng ủy chỉ đạo chính quyền, hợp tác xã giao cho từng đội sản xuất với phạm vi của mình phải chịu trách nhiệm về hệ thống giao thông đi lại từng thôn, từng đội và xem đó là một trong những nhiệm vụ phải hoàn thành.

Được sự quan tâm trực tiếp của Huyện ủy, Uỷ ban nông nghiệp huyện và các ban ngành có liên quan. Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy cấp trên tháng 5 - 1984, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải lần thứ XIX, nhiệm kỳ 1984-1986 được tổ chức. Đại hội đã xác định phương hướng cơ bản trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện 3 nhiệm vụ cấp bách, trong giai đoạn mới là: tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lấy sản xuất lương thực, thực phẩm là trọng điểm, cân đối giữa chăn nuôi và trồng trọt trên cơ sở thâm canh, tăng năng suất cây trồng đảm bảo tổng thu nhập trong năm, có giá trị, hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời chăm lo phát triển văn hóa - xã hội, củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Đại hội cùng đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Mai Đình Đồng được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Trịnh Hải Hòa được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Phùng Văn Thao được bầu làm trực Đảng.

Chăn nuôi được Đảng bộ chú trọng phát triển ở cả hai khu vực tập thể và xã viên nhằm phát huy thế mạnh của từng thành phần kinh tế. Đáng chú ý là chăn nuôi trâu, bò được mở rộng quy mô, tăng về số lượng.

Văn hóa xã hội

Đi đôi với quá trình tổ chức lại sản xuất, Đảng bộ xã Thọ Hải chú trọng chăm lo đến các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế và xem đây là một trong những công tác trọng tâm. Đảng bộ xã đã vận động nhân dân xây dựng nếp sống mới, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc cưới, việc tang, ngày lễ, ngày hội... Khắc phục những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, hoạt động thông tin văn hóa đã bám sát nhiệm vụ chính trị địa phương, tuyên truyền kịp thời, phục vụ đời sống nhân dân trong xã. Các đội văn nghệ được củng cố, phục vụ cho nhu cầu giải trí của nhân dân trong các dịp lễ, tết. Một số công trình phục vụ cho hoạt động văn hóa - xã hội, đời sống sinh hoạt của nhân dân trong xã được xây dựng, phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được phát huy tới từng thôn xóm.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được xã Thọ Hải coi trọng, Đảng bộ đã chỉ đạo phát động nhân dân thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh", vệ sinh thôn xóm, nhà ở được sạch sẽ. Các công trình nhà tắm, giếng nước được xây dựng nhằm phòng tránh bệnh tật cho nhân dân. Mặc dù khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, song trạm y tế đã làm tốt công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Mỗi năm, vận động được hàng trăm lượt người đến cơ sở y tế khám, chữa bệnh, đẩy lùi tình trạng chữa bệnh bằng cách cúng ma phổ biến. Trên địa bàn xã không có các dịch bệnh lớn xảy ra.

2. Đảng bộ xã Thọ Hải lãnh đạo nhân dân thực hiện khoán 100 (1980 -1985)

Năm 1980, Thọ Hải kết thúc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XVII của xã. Mặc dù đã đạt được những kết quả cơ bản trên nhiều phương diện, nhưng nhìn chung các chỉ tiêu còn thấp, lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng còn thiếu; vật tư, tài chính mất cân đối; đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó đặt ra cho cấp ủy Đảng, chính quyền và các cấp nhiệm vụ cần phải phát huy tinh thần trách nhiệm, ý chí tự chủ sáng tạo, để có chuyển mới trên mặt trận kinh tế - xã hội và văn hoá.

Trước tình đó, từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, Ban Chấp hành Trung ương đã nghiên cứu và sửa đổi một số đường lối chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là đường lối chính sách phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp. Tháng 8-1979, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa IV) đã ra Nghị quyết về chuyển hướng phát triển kinh tế. Tinh thần nghị quyết là thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi trọng cả 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động, làm cho sản xuất “bung ra”. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển, trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV), tháng 10-1980 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ đạo các tỉnh triển khai một bước đổi mới cơ chế khoán trong nông nghiệp. Ngày 13-01-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100-CT/TW (còn gọi là khoán 100), về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Mục đích của công tác khoán theo Chỉ thị 100 là đảm bảo phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đối với hợp tác xã nông nghiệp, phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, tổ chức tốt việc quản lý và điều hành lao động; nắm và chủ động được sản phẩm, phát huy quyền làm chủ của hợp tác xã, làm chủ tập thể của xã viên; ngăn chặn tình trạng khoán trắng, buông trôi cho lãnh đạo. Chỉ thị số 100 ra đời thể hiện sự đổi mới tư duy trong việc cải cách một phần cơ chế hoạt động của hợp tác xã, là kết quả của quá trình tìm tòi, đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế trong việc cải cách một bước mô hình hợp tác xã nông nghiệp, mở ra một hướng làm ăn mới cho nền sản xuất nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nói chung, xã Thọ Hải nói riêng. "Khoán 100" đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.

Text Box: ÍP
ng
ng
P-
12
In
ừa
ne
no
ne
ng
hế
1,
w
nở
ne
ác
ắt.
ng
tư
ao
ền
ăn
'hỉ
:ải
uả
ch
hột
ne
Đại hội đã thông qua Nghị quyết thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển chăn nuôi; củng cố công tác y tế, văn hóa, giáo dục, tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng vững mạnh.

Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng như một luồng sinh khí mới thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên, việc khoán sản phẩm còn một số sai lệch như khoán trắng cho xã viên, chưa quan tâm đến phát triển cây màu, cây công nghiệp, chăn nuôi, thủy lợi... Nhằm khắc phục tình trạng nói trên, tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, ngày 16-6-1983, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 02 chỉ đạo các ngành, các cấp, các hợp tác xã nông nghiệp sửa chữa sai lệch trong việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Chỉ thị nêu rõ:

"Chống khoán trắng trong các hợp tác xã nông nghiệp, giao khoán ruộng đất cho hộ xã viên ổn định đến năm 1985. Hợp tác xã phải tập trung chỉ đạo khâu giống, làm đất, làm thủy lợi, chỉ đạo gieo trồng đúng thời vụ. Sản lượng giao khoán phải đảm bảo 3 lợi ích, phải quan tâm giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ, neo đơn".

Thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng cấp trên, Đảng ủy xã đã tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 100. Thông qua đó đã chỉ đạo các hợp tác xã sửa chữa những sai lệch trong quá trình thực hiện Chỉ thị 100 như: Khắc phục tình trạng giao ruộng manh mún; xác định lại sản lượng, trường hợp do thiên tai gây ra, cấp ủy, hợp tác xã xem xét cụ thể để miễn giảm hợp lý; tổ chức, điều chỉnh một số khâu công việc cần khoán; trong thu nộp sản phẩm các hộ xã viên phải nộp đầy đủ cho hợp tác xã.

Bằng những chủ trương đúng đắn, biện pháp kiên quyết, Đảng ủy, ủy ban nhân dân xã đã chỉ đạo các hợp tác xã, các đội sản xuất thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 02 CT/TU của Tỉnh ủy về quản lý, năng suất, sản lượng lúa, màu của hợp tác xã nên những năm 1981-1985, mức tăng trưởng cao hơn trước. Mức bình quân lương thực đạt gần 60 ta/ha, nạn đói giáp hạt của nhân dân các dân tộc trong xã đã giảm dần, nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước hàng năm hoàn thành đầy đủ chỉ tiêu.

II. ĐẢNG BỘ XÃ THỌ HẢI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÙNG CẢ NƯỚC THỰC HIỆN CÔNG CUỘC  ĐỔI MỚI (1986-1996)

1. Thọ Hải trong 5 năm đầu bước vào thực hiện đổi mới (1986-1990)

Quá trình hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta đã có những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy kinh tế trước khi hình thành đổi mới toàn diện tại Đại hội VI1. Có ba bước đột phá trong những năm trước thềm đổi mới, tạo tiền đề cho sự hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Bước đột phá đầu tiên đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV(8-1979), Đảng ta chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất bung ra. Bước đột phá thứ hai, Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985), chủ trương dứt khoá xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế 1 giá. Bước đột phá thứ ba, kết luận của Bộ Chính trị đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế (8-1986), ba bước đột phá nêu trên là bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI của Đảng.

Học tập và quán triệt đường lối đối mới ở xã Thọ Hải

Sau hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng. Nhưng nhân ta vừa phải đương đầu với những khó khăn thách thức do các mặt yếu kém của nền kinh tế, hậu quả của khuyết điểm khi điều chỉnh giá - lương - tiền, thiên tai liên tiếp xảy ra, sản xuất trì trệ, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội cơ bản đều không hoàn thành. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng cao, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, vừa phải góp phần tăng cường nhiệm vụ quốc phòng an ninh, đối phó với những âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, đảm bảo vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Trước tình hình đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, từ ngày 15 đến 18 tháng 12-1986, tại Hà Nội, Đảng ta đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy lý luận, tư duy kinh tế, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tiếp tục tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đề ra ba chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội là một luồng gió mới thổi đến cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; mở hướng cho đất nước bước vào thời kỳ mới, xóa dần cơ chế quản lý quan liêu bao cấp; mở cửa để hòa nhập với thế giới.

Đại hội VI (12-1986), đã mở đầu cho công cuộc đổi mới ở nước ta với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", Đại hội đã vạch ra những khuyết điểm, sai lầm, trong đó sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phân phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi đó "là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện"1, "bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng"2

Đại hội VI đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên3. Đột phá lớn ở Đại hội VI vừa dựa trên tiền đề từ những đột phá nêu trên, vừa vượt lên những bước đột phá đó, tạo ra một động lực lớn, căn bản và toàn diện của phát triển kinh tế  - xã hội. Đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng - cuộc cách mạng hướng tới đích phát triển, mà thực chất sâu xa của phát triển là phát triển con người, phát triển sức dân, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân, vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh". Hệ mục tiêu của đổi mới không ngừng được bổ sung, hoàn chỉnh ở các Đại hội tiếp theo nhưng ba giá trị mục tiêu mà Đại hội VI nêu ra là những giá trị cốt lõi của đổi mới và phát triển.

Đảng bộ xã Thọ Hải tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội VI một cách nghiêm túc và vận dụng thực hiện đường lối đổi mới của cấp trên vào tình hình của xã một cách linh hoạt sáng tạo. Trước hết với tinh thần “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng bộ đi sâu kiểm điểm, đánh giá thực trạng kinh tế địa phương, thấy rõ việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp những năm đầu đã tạo nên những chuyền biến tích cực, nhưng các hợp tác xã dần dần đi vào “khoán trắng” nên cá biệt đã có tình trạng xã viên trả lại ruộng nhận khoán. Đáng chú ý là tình trạng tồn đọng sản phẩm có chiều hướng tăng lên. Trong việc nghiên cứu, học tập Nghị quyết Đại hội Đảng, Đảng ủy coi trọng quán triệt quan điểm của Đảng, nhất là quan điểm đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, phải từng bước hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Sau Đại hội VI, Trung ương Đảng, Chính phủ và Tỉnh ủy còn có những chỉ thị, nghị quyết quan trọng nhằm đưa Nghị quyết Đại hội VI đi vào cuộc sống. Đảng ủy xã Thọ Hải đã tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập, quán triệt những Chỉ thị, Nghị quyết cụ thể nói trên tạo nên sự nhất trí ngày càng cao từ trong Đảng đến quần chúng nhân dân. Đường lối đổi mới của Đảng ngày một thể hiện rõ, đem lại khởi sắc trên quê hương Thọ Hải.

Trong những năm 1985-1986, Thọ Hải cũng như nhiều địa phương khác trong huyện Thọ Xuân bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh những thuận lợi căn bản, Thọ Hải phải đối diện với không ít thách thức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực phân phối, lưu thông. Trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn về đời sống, vật tư, hàng hóa khan hiếm, giá cả biến động. Núi rừng bị tàn phá, diện tích đất nông nghiệp nhiều nơi phải bỏ hoang do hạn hán, lũ lụt. Cơ sở vật chất - kỹ thuật nghèo nàn; tập quán canh tác lạc hậu, cơ chế khoán không được chấp hành nghiêm túc, trình độ quản lý điều hành công tác thiếu năng động, trình độ dân trí chưa cao, y tế, giáo dục chậm phát triển.

Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đang thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX, thì nhận được chủ trương Chỉ đạo Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XX vào tháng 01-1987, nhiệm kỳ 1987 -1989, Đại hội thực hiện đường lối đổi mới của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng ủy xã Thọ Hải đề ra nhiều biện pháp nhằm ưu tiên tập trung vào mặt trận sản xuất nông nghiệp mà mục tiêu trước mắt là khẩn trương khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 1985. Mặc dù thiên tai liên tiếp xảy ra, song với tinh thần vượt lên trên khó khăn, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, phát huy mọi yếu tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn, động viên nhân dân cấy hết diện tích, mở rộng diện tích trồng hoa màu, đi sâu vào các biện pháp thâm canh cấy đúng thời vụ, bỏ giống cũ, mạnh dạn đưa giống mới vào sản xuất; tăng cường làm thủy lợi mặt ruộng chống úng cục bộ, xác định được cơ cấu cây trồng, chủ động cải tạo diện tích đất mạ, tận dụng diện tích đất hoang hóa, đẩy mạnh sản xuất các nguồn phân bón. Cùng với đó, Đảng bộ xã Thọ Hải luôn quan tâm, coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật trong nông nghiệp. Nhờ đó, đã mang lại kết quả trên cả 3 mặt; diện tích, năng suất và sản lượng. Đời sống của nhân dân ổn định, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, tăng tích lũy cho tập thể.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XX gồm 11 đồng chí. Trong phiên họp đầu tiên Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Phùng Văn Thao được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Trịnh Hải Hòa được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, đồng chí Lê Văn Huân được bầu làm trực Đảng.

Đi đôi với phát triển nếp sống văn hóa mới, công tác giáo dục được đẩy mạnh. Năm học 1987-1988, và năm học 1988-1989, số lượng học sinh các cấp đều tăng, thi lên lớp, thi vượt cấp năm học sau cao hơn năm trước.

Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tiếp tục được Đảng bộ quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sửa chữa các phòng khám, phòng bệnh, xây mới nhà bếp, trang bị thêm bàn ghế, giường bệnh... củng cố hoàn thiện bước cơ bản cơ sở vật chất cho việc khám và chữa bệnh, kết hợp y học hiện đại với y học dân tộc trong khám và điều trị bệnh cho nhân dân. Phát động phong trào toàn dân thực hiện vệ sinh phòng bệnh, khuyến khích người dân trồng cây thuốc nam trong vườn, trạm xá của xã. Ngoài ra, công tác y tế còn kết hợp với Hội Phụ nữ làm tốt công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, vận động, tuyên truyền chị em trong độ tuổi sinh đẻ đặt vòng tránh thai, góp phần thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết số 03 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 02 (7-1987), của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Đảng bộ xã Thọ Hải đã chỉ đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn liền với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Giáo dục sâu rộng luật nghĩa vụ quân sự cho thanh niên, kiện toàn lực lượng dân quân từ xã xuống cơ sở sản xuất. Hoàn thành công tác tuyển quân lên đường nhập ngũ qua các năm và hoàn thành chương trình huấn luyện quốc phòng hàng năm.

Công tác xây dựng Đảng luôn được quan tâm đúng mức, Đảng bộ vượt qua mọi khó khăn, nhanh chóng nắm bắt đường lối của Đảng, chủ trương của tỉnh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể, đề ra những chủ trương, biện pháp sát đúng trong chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội.

Về chính trị, Đảng bộ tổ chức quán triệt cho đảng viên, cán bộ những nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện và các Nghị quyết quan trọng khác. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải khóa XX được triển khai đúng tinh thần đổi mới của Đại hội VI, các chủ trương lớn về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Qua rèn luyện và thử thách trong thực tiễn, nhiều đảng viên đã tỏ rõ tư tưởng chính trị vững vàng, giữ vững đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác.

Về tổ chức, đào tạo cán bộ: Đảng bộ mở các lớp tập trung ở xã, bồi dưỡng lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đảng viên nêu cao tinh thần trách nhiệm. Qua đấu tranh tự phê bình và phê bình, đảng viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, đấu tranh chống tư tưởng lợi dụng tôn giáo cho Bí thư chi bộ ở các thôn và trường học. Bằng nhiều hình thức và biện pháp giáo dục sinh động, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ được nâng lên.

Kinh tế thủ công nghiệp chưa phát triển được nghề mới, năng lực sản xuất còn thấp, chính sách đối với người lao động chưa được quan tâm. Huyện ủy đã ra Nghị quyết về kinh tế gia đình nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa phát huy được tiềm năng, thuế nông nghiệp không đạt chỉ tiêu, tiền hàng mất cân đối. Xây dựng cơ bản thiếu đồng bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện một bước song vẫn còn nhiều khó khăn.

Nguyên nhân khách quan là cơ chế quản lý, cơ chế tổ chức, vật tư, tiền vốn, chính sách giá cả, thị trường, thời tiết... cùng những yếu kém nhiều năm để lại là khó khăn lớn. Về chủ quan, nhận thức về đổi mới còn giản đơn, thiếu sâu sắc, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, thiếu cụ thể hóa nội dung và yêu cầu đổi mới. Tư tưởng bảo thủ còn nặng nề, nếp nghĩ, cách làm còn lạc hậu; năng lực sản xuất chậm được giải phóng, sản phẩm hàng hóa thấp. Việc chuyển từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa còn quá chậm. Đời sống nhân dân các dân tộc ở địa phương còn gặp nhiều khó khăn.

Trình độ và năng lực đội ngũ cốt cán nhìn chung còn nhiều hạn chế. Chỉ đạo của các cấp, các ngành thiếu đồng bộ, thiếu tập trung, thiếu sâu sát ở cơ sở. Các khâu do tập thể đảm nhiệm không đáp ứng yêu cầu, thường chậm chạp, phó thác cho xã viên làm trong khi người lao động vẫn phải trả những chi phí đó. Mặt khác, năng lực quản lý điều hành của Ban quản trị không đáp ứng được yêu cầu, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả. Tình trạng "Tâng công phóng điểm” lại tiếp diễn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người lao động. Nhiều xã viên không giao nộp sản phẩm theo quy định khoán cho hợp tác xã... Những nhược điểm của “khoán 100” đã bộc lộ rõ, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có biện pháp tháo gỡ mới đưa nông nghiệp phát triển.

Đứng trước tình hình đó, thực hiện sự chỉ đạo chung của của cấp trên tháng 01-1990, Đảng bộ xã Thọ Hải tiến hành Đại hội lần thứ XXI, nhiệm kỳ 1990-1991, tại Hội trường hợp tác xã Thọ Hải. Trong thời gian diễn ra Đại hội, các đồng chí đảng viên đã được nghe báo cáo và tập trung thảo luận, góp ý vào “Đề cương dự thảo Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân; bầu đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Qua tìm hiểu Văn kiện chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội Đảng bộ huyện, các đồng chí đảng viên hiểu sâu sắc thêm tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như trên địa bàn huyện. Đặc biệt, với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật khách quan, tìm ra nguyên nhân yếu kém để phát triển, với “quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học” của văn kiện Đại hội VI, bước đầu đã tạo nên nhận thức mới trong mỗi đảng viên.

Tiếp thu tinh thần của Đại hội VI, cán bộ lãnh đạo và toàn thể đảng viên trong Đảng bộ nhận thức rõ: Đây là thời cơ thuận lợi mở ra một giai đoạn mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển, đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi mỗi đảng viên, mỗi tổ chức Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ, nhận thức, công tác tổ chức, ý thức chính trị để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.

Đảng ủy đã lãnh đạo các chi bộ chỉ đạo các đội sản xuất, họp bàn công khai, dân chủ. Lấy chi bộ làm hạt nhân lãnh đạo, đảng viên làm nòng cốt của phong trào. Phát huy mạnh mẽ sức mạnh đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các tổ chức đoàn thể trong địa phương. Điều chỉnh kịp thời các biện pháp chỉ đạo sản xuất. Quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ, động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nhất là những gia đình còn gặp khó khăn về nhân lực, kỹ thuật và kế hoạch trong sản xuất.

Tuy nhiên, giai đoạn này, ở tầm vĩ mô, nền kinh tế nước ta đang bị khủng hoảng trầm trọng, tình hình kinh tế - xã hội đang có những diễn biến phức tạp. Một số chính sách lỗi thời, lạc hậu kìm hãm sự phát triển bị bãi bỏ, nhưng những chính sách mới chưa định hình và phát huy tác dụng, lạm phát ngày càng tăng.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng bộ đã nghiêm túc nhìn nhận những khó khăn, tìm ra nguyên nhân để đề ra những biện pháp khắc phục. Đảng bộ tập trung giải quyết tốt các khâu: thủy lợi, giống mới, phân bón, bảo vệ thực vật, ứng dụng khoa học - kỹ thuật. Vì vậy, năng suất lúa đạt kế hoạch đề ra, diện tích cây ngô được mở rộng, đặc biệt là diện tích ngô trồng trên nương, rẫy. Diện tích trồng rừng được mở rộng, đem lại những hiệu quả cao cho nhân dân.

Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật để dũng cảm tiến lên, Đại hội cũng chỉ ra những hạn chế cần khắc phục là: Trong sản xuất vẫn còn mất cân đối giữa trồng trọt, chăn nuôi và các ngành nghề.

Đại hội Đảng bộ khóa XX xác định huy động mọi tiềm lực sản xuất trong dân được huy động khiến năng suất cây trồng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, nhất là việc tăng mức sản lượng hàng năm khiến người nông dân đầu tư thâm canh nhưng vẫn không có lãi nên sản xuất chững lại, sản xuất ở Thọ Hải vẫn bị ràng buộc trong cơ chế quan liêu, bao cấp theo mệnh lệnh từ trên xuống. Để từng bước tháo gỡ khó khăn cho cơ sở, Tỉnh ủy đã có Nghị quyết số 06, trên cơ sở đó Huyện ủy có Nghị quyết về việc sửa đổi một số chủ trương trong công tác khoán. Từ đây xóa bỏ chế độ giao nghĩa vụ thực phẩm cho xã viên, Nhà nước thu mua với giá thỏa thuận; thuế nông nghiệp giao ổn định đến năm 1990, năng suất khoán ổn định, hộ nào làm cao sẽ có lãi; quy hoạch lại đội sản xuất, giảm bớt cán bộ quản lý, tăng cường khâu khoán thẳng cho hộ, sản phẩm làm ra nộp cho Nhà nước và tập thể 40% gồm: thuế, lệ phí thủy lợi, vật tư sản xuất. Có thể nói đây là một cách làm sáng tạo của tỉnh và huyện trong thực tế chỉ đạo sản xuất ở địa phương.

Trên cơ sở những thành công và hạn chế trong việc chỉ đạo khoán 100, Đảng bộ xác định: khoán 10 là thời cơ thuận lợi để thúc đẩy sản xuất ở địa phương, nhưng đây là công việc mới mẻ, đòi hỏi phải có cách làm thận trọng, khoa học, tránh cả hai thái cực hữu khuynh và tả khuynh.

Nghị quyết Đại hội chỉ rõ “Nhiệm vụ trung tâm, cấp bách số một trong những năm tới là phải tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, làm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, bảo đảm thừa ăn và tiêu dùng cho nhân dân. Tăng cường hoạt động phân phối lưu thông cho sản xuất lương thực và hàng hóa trên địa bàn huyện ngày càng phong phú, kiên quyết xóa bỏ dần nạn thiếu đói lương thực hàng năm. Trên cơ sở mở rộng sản xuất, lưu thông, phát huy 5 thành phần kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách, tăng sản phẩm hàng hóa như nông sản, lâm sản, cây công nghiệp xuất khẩu... để cải thiện mức tiêu dùng của nhân dân”.

Qua nghiên cứu nội dung Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thọ Hải hiểu rõ đây là việc làm cần thiết nhằm đảm bảo cho mọi người đều có khả năng đạt và vượt mức khoán. Mục đích khoán là đảm bảo cho nhân dân được hưởng 100% thành qủa lao động sau khi trừ đi các chi phí phục vụ sản xuất và đóng góp nghĩa vụ tập thể. Tuy nhiên, qua thực hiện, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cũng nhận thấy một số khó khăn khi thực hiện khoán 10 là: Tình hình sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, người lao động chưa chủ động được về thời vụ, đồng ruộng không bằng phẳng... Những khó khăn này sẽ tác động đến tư tưởng trong nhân dân.

Khoán 10 ra đời đã tạo ra một không khí thi đua sôi nổi trong sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Người nông dân yên tâm đầu tư để thâm canh tăng năng suất. Sản xuất phát triển, có vốn tích lũy, tạo điều kiện đầu tư tái sản xuất. Những chiếc máy bơm nước, xe công nông, máy tuốt lúa, xuất hiện ngày càng nhiều thay dần cho sức người. Từ sản xuất tập thể theo cơ chế ghi công, chấm điểm chuyển sang khoán sản phẩm cho hộ xã viên đã tạo ra bước đột phá quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Người lao động được khuyến khích bằng chính thành qủa do mình làm ra. Việc đổi mới này đã phản ánh đúng quy luật phát triển và đặt tiền đề tiến tới nền sản xuất hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện để người lao động phát huy khả năng lao động, tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất, đồng thời đảm bảo được ba lợi ích: Cá nhân, tập thể và Nhà nước.

Qua 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 10, sản xuất ở Thọ Hải có bước phát triển mạnh mẽ. Năng suất, sản lượng lương thực đều tăng vững chắc. Không còn hiện tượng xã viên ngại đầu tư thâm canh, thậm chí đòi trả lại ruộng. Chăn nuôi phát triển, ngành nghề ở địa phương được mở mang, dịch vụ thương nghiệp bắt đầu khởi sắc, nền kinh tế nhiều thành phần phát triển. Nghĩa vụ lương thực Nhà nước luôn hoàn thành. Sản xuất phát triển, tích lũy của tập thể ngày một tăng, cơ sở vật chất ngày càng được cải tạo, các công trình phúc lợi như hội trường, trường học, trạm y tế, đường giao thông ngày càng được củng cố và nâng cấp. Đời sống nhân dân từng bước được nâng cao.

An ninh, quốc phòng được giữ vững. Hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu luôn đạt kết quả cao. Chỉ tiêu giao quân hàng năm đều hoàn thành. Năm 1991, thực hiện đợt diễn tập khu vực phòng thủ đạt kết quả tốt.

Hoạt động của chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương ngày càng hiệu quả. Đây là thời kỳ có nhiều chuyển đổi mạnh mẽ trong việc quản lý, sử dụng lao động, đổi mới trong tổ chức, quản lý kinh tế. Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải tự vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới. Trong công tác quản lý của chính quyền, phải vừa đảm bảo giữ vững kỷ cương phép nước lại phải tránh cách làm mệnh lệnh, gò ép, thiếu dân chủ; không được để tư duy bao cấp ngăn cản sự phát triển của sản xuất. Đảng bộ xã đã cử nhiều đồng chí cán bộ đi học nâng cao trình độ lý luận và nghiệp vụ chuyên môn.

Xây dựng Đảng

Trong công tác Đảng, một nhiệm vụ bao trùm trong giai đoạn này là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy là khởi đầu cho thành công của công cuộc đổi mới của Đảng ở địa phương. Phải bắt đầu từ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của địa phương đến tất cả đảng viên trong Đảng bộ; phải nhận thức sâu sắc tính tất yếu của công cuộc đổi mới của Đảng. Từ đổi mới tư duy đúng đắn mới có thể tiến hành đổi mới về kinh tế, đổi mới về công tác cán bộ. Cùng với đổi mới tư duy, Đảng bộ cần mạnh dạn trẻ hóa đội ngũ, chọn người có năng lực giữ các vị trí chủ chốt.

Công tác kiểm tra cũng được làm quyết liệt. Việc phân loại chi bộ, đảng viên được thực hiện nghiêm túc, góp phần xây dựng chi bộ vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của mỗi đảng viên ngang tầm với nhiệm vụ mới.

Bên cạnh những thành tích trên, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ cũng nhận thấy những bất cập cần tập trung giải quyết là: Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng mới đạt được ở sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiểu thủ công và xuất khẩu kết quả chưa cao. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp còn chậm; người lao động nông nghiệp gặp trở ngại trong việc cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu, tưới tiêu. Trong lâm nghiệp, đất trống đồi núi trọc chậm được phủ xanh. Việc giao cho từng hộ chăm sóc, bảo vệ diện tích rừng còn chậm, khai thác lâm sản không có kế hoạch nên vốn rừng nghèo kiệt. Cơ chế đổi mới nhưng tư duy kinh tế của số đông cán bộ và nhân dân vẫn chưa thay đổi bắt kịp với thị trường. Sản xuất vẫn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Công tác quản lý của một bộ phận cán bộ chưa bắt kịp yêu cầu. Công tác giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học còn thiếu thốn, tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao...

Đảng bộ xác định những thiếu sót trên, một mặt do khách quan, mặt khác do chủ quan của công tác lãnh đạo. Nhưng những khuyết điểm đó là khó tránh khỏi trong giai đoạn đầu của sự đổi mới. Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được trong những năm đầu đổi mới là căn bản. Thành công trong sản xuất nông nghiệp đã chứng tỏ công cuộc đổi mới của Đảng đang đơm hoa, kết trái trên mảnh đất Thọ Hải. Chứng tỏ Đảng bộ nhạy bén trong công tác chỉ đạo, linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tế, biết khơi gợi, phát huy mọi tiềm năng sẵn có trong dân, vượt khó vươn lên giành những thắng lợi mới.

3. Thọ Hải đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội (1991-1995)

Đảng bộ xã Thọ Hải đẩy mạnh phát triển kinh tế

Sau 5 năm triển khai thực hiện đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta có bước chuyển biến đáng kể, song kinh tế lạm phát vẫn ở mức cao, đời sống của người lao động còn khó khăn. Mặt khác, cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch gây ra bất lợi đến cách mạng nước ta. Trước tình hình đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 24 đến ngày 26-7-1991, tại Hà Nội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1991-1995). Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và điều lệ Đảng sửa đổi.

Thực hiện nhiệm vụ của Đảng ủy các cấp Đảng ủy xã Thọ Hải đã tiến hành Đại hội lần thứ XXII, tham dự Đại hội có 135 đảng viên. Tại Đại đã đưa ra những vấn đề quan trọng đó là năm 1992 giải thể HTX lớn chia thành 3 hợp tác xã nhỏ. Hình thành 3 đảng bộ bộ phận lãnh đạo HTX. Khu I: HTX Đông Phương Hồng, ông Nguyễn Xuân Ổn làm chủ nhiệm, ông Nguyễn Văn Thời làm kế toán; Khu II: ông Trịnh Hải Hòa làm chủ nhiệm; Khu III: ông Hoàng Trọng Kiện làm chủ nhiệm.

Nghị quyết đã chỉ đạo các hộ nông dân tích cực đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng và chủ động tìm tòi đưa các giông lúa mới cho năng suất cao vào sản xuất như lúa thuần, lúa lai Trung Quốc. Chính nhờ những biện pháp tích cực đó mà nông nghiệp Thọ Hải được cả nước biết đến. Năng suất lúa bình quân đạt trên 500kg/sào, cá biệt có những hộ năng suất lúa đạt từ 50  60 tạ/ha. Cây ngô cũng được phát triển khá cả về diện tích, năng suất và sản lượng.

Văn hóa xã hội

Về giáo dục tình trạng học 3 ca ngày không còn, Trường cấp I, II được tách riêng. Tỷ lệ học sinh thi vượt cấp luôn đạt trên 95%. Được sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền xã cộng với tinh thần vươn lên vượt khó, chất lượng giảng dạy không ngừng được nâng cao. Các em học sinh trưởng thành từ mái trường trong giai đoạn này đã góp phần làm rạng rỡ cho nền giáo dục xã nhà.

Song song với giáo dục, công tác y tế cũng được xã quan tâm đúng mức. Với lực lượng cán bộ y tế đã qua đào tạo cơ bản, trạm y tế xã luôn tổ chức tốt các chương trình y tế công cộng, khám chữa các bệnh sốt rét, phong, bướu cổ, lao cho nhân dân. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình có nhiều tiến bộ, Ủy ban dân số của xã được củng cố, ổn định và đi vào hoạt động tốt đã góp phần giảm tỉ lệ gia tăng dân số xuống hơn 2% năm 1993. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thông tin có bước tiến bộ đáng kể. Tiếng nói của Đảng, Nhà nước đã kịp thời được tuyên truyền đến nhân dân. Tính hiệu quả trong công việc được nâng lên, góp phần tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Trình độ dân trí được nâng cao là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi.

Công tác đền ơn đáp nghĩa và hoạt động từ thiện luôn được Đảng ủy coi trọng. Bên cạnh việc chi trả đầy đủ, kịp thời chế độ cho các đối tượng chính sách theo quy định của Nhà nước còn có nhiều việc làm thiết thực như lập các sồ tiết kiệm tặng cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đảng ủy xã còn tạo điều kiện cho con em thương binh, liệt sĩ đi học nghề, có việc làm, đảm bảo ổn định cuộc sống.

Công tác quốc phòng - an ninh trong giai đoạn 1991-1993, tiếp tục được củng cố bằng việc thực hiện Nghị quyết số 02, 07 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 135 của Hội Đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về phong trào chống tội phạm; Nghị quyết số 19, Đề án số 07 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về quốc phòng an ninh và Chỉ thị số 27 về giáo dục cảm hóa người lầm lỗi. Công tác phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, đúng người đúng tội nên đã giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn xã.

Lực lượng dân quân xã Thọ Hải hàng năm đều tổ chức tập luyện, diễn tập quân sự theo kế hoạch chung của huyện đội, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Các hoạt động tuyển chọn giao quân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên tiếp tục được phát huy có hiệu quả.

Đi đôi với nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng và coi đây là nhiệm vụ then chốt để Đảng bộ hoàn thành chức năng lãnh đạo phong trào ở địa phương. Công tác tuyên truyên đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thường xuyên được quan tâm. Xã đã tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Các đợt sinh hoạt chi bộ, học tập nghị quyết của Đảng đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn những thành tựu, khó khăn, thời cơ và thách thức, khơi dậy truyền thống cách mạng đoàn kết, tự lực, tự cường.

Trong hoạt động, Đảng bộ luôn đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ” đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức. Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương III, Chỉ thị 14 của Ban Bí thư, Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị... các cơ sở Đảng có nhiều tiến bộ rõ rệt, phát huy được vai trò lãnh đạo và chỉ đạo trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế hàng hóa. Nhiều đảng viên đã phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu trong việc xóa đói giảm nghèo, khắc phục những biểu hiện mất đoàn kết, hữu khuynh và tạo được niềm tin đối với quần chúng. Đảng ủy tập trung vào việc củng cố các cơ sở Đảng, các chi bộ được kiện toàn sắp xếp lại có chất lượng, lực lượng đảng viên được rà soát, xét duyệt, phân loại có chất lượng tốt. Việc phân loại đảng viên định kỳ 6 tháng, 1 năm theo Chỉ thị số 14 của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 256 của Tỉnh ủy được thực hiện nghiêm túc. Đi đôi với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hoạt động của ủy ban kiểm tra Đảng cũng được tăng cường, góp phần tích cực giữ gìn nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế, Điều lệ Đảng trong toàn Đảng bộ. Những cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút sức chiến đấu, buông lỏng kỷ luật Đảng, suy thoái về đạo đức, lối sống được kiểm điểm, uốn nắn kịp thời. Thông qua các hoạt động kiểm tra, chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên được nâng lên.

Công tác xây dựng chính quyền và vận động quần chúng: Vai trò quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân có nhiều tiến bộ, thể hiện rõ nét trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Sau các đợt kiện toàn, nhất là qua bầu cử Hội đồng nhân dân, chính quyền tiếp tục được củng cố, hoạt động quản lý điều hành theo chức năng tốt hơn. Các đoàn thể quần chúng hoạt động đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã. Mặt trận Tổ quốc đã cải tiến nội dung hoạt động từ hội họp quần chúng sang phương thức vận động nhân dân tham gia xây dựng và quản lý Nhà nước. Thường xuyên làm tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng, tích cực tham gia củng cố xây dựng chính quyền. Hội Cựu chiến binh xã Thọ Hải đã ổn định hệ thống tổ chức và cán bộ, thu hút đông đảo cựu chiến binh về địa phương vào hội. Hội Nông dân hoạt động có nhiều chuyển biến tích cực. Hội đã tập trung vào các chương trình như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xóa vườn tạp, mở rộng các hoạt động chăn nuôi, lập vườn cây ăn quả... thu hút được đông đảo hội viên, đoàn viên tham gia. Hội Phụ nữ (đã phối hợp với các đoàn thể để làm tốt công tác của mình, góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, hưởng ứng tích cực các chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Huyện ủy Thọ Xuân, ngày 15-12-1994, Đại hội Đảng bộ xã Thọ Hải lần thứ XXIII, nhiệm kỳ 1994-1996, đã được tổ chức. Đại hội tiến hành đánh giá những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ trước và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1994 - 1996, gồm 11 đồng chí. Trong phiên họp đầu tiên Ban Chấp hành bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Duy Tới được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Trần Văn Hợp được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Thị Hạnh được bầu làm trực Đảng

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXIII, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách. Kinh tế còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ; tự túc, tự cấp là chủ yếu. Khi chuyển sang cơ chế mới, một bộ phận nhân dân chậm đổi mới, kể cả trong nhận thức và trong sản xuất, kinh doanh, chậm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu đầu tư và kế hoạch tổ chức lao động, mở rộng ngành nghề trong mỗi hộ gia đình.

Bên cạnh những khó khăn đó, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải có những thuận lợi cơ bản, đó là: Kinh tế nông nghiệp đã có bước chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ có hiệu quả để tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Cơ cấu kinh tế theo hướng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã có sự chuyển dịch đáng kể như khai thác vật liệu xây dựng, phương tiện vận chuyển, phương tiện làm đất, máy tuốt lúa, máy xay xát, tăng số hộ dịch vụ lưu thông. Song song với sự phát triển kinh tế, công tác văn hóa - xã hội ngày càng được quan tâm nhằm phát huy nhân tố con người trong việc thực hiện các nhiệm vụ đổi mới nền kinh tế, xã hội.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII, trong những năm 1994-1995, nền kinh tế xã Thọ Hải có những chuyển biến rõ nét. Nhờ làm tốt công tác thủy lợi, chủ động được nguồn nước tưới tiêu phục vụ mùa màng. Phong trào thâm canh tăng vụ phát triển mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Các hợp tác xã thể hiện được vai trò trong công tác dịch vụ, như cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu. Sản xuất phát triển, tính đến năm 1995, sản lượng lương thực đạt trên 3.700 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 700 kg/người/năm. Sản lượng lương thực ngô, sắn hàng hóa trên 150 tấn, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời Thọ Hải luôn hoàn thành thuế nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước.

Về chăn nuôi, phát huy thế mạnh của địa phương, ngành chăn nuôi đang dần trở thành một ngành chính, vừa đảm bảo bảo sức cày kéo, vừa cung cấp thực phẩm tại chỗ và cung cấp ra thị trường. Nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đâu tư chăn nuôi với hàng chục con trâu, bò, lợn, diện tích và sản lượng cá nước ngọt cùng được tăng nhanh.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn phát triển phong phú đa dạng như sản xuất vật liệu xây dựng, mộc, xay xát, cơ khí, chế biến thực phẩm, thức ăn gia súc... Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo môi trường thuận lợi đế các ngành kinh tế phát triển nhanh hiệu quả; gắn sản xuất nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ và các Dự án đầu tư của Nhà nước, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong nhiệm kỳ qua, công tác xây dựng cơ bản tiếp tục được quan tâm.

Thu chi ngân sách và các loại quỹ đã đi vào nền nếp, đảm bảo theo luật và quy định của Nhà nước. Việc huy động đóng góp của nhân dân đảm bảo đúng quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong thu chi ngân sách trong 2 năm đạt 100% kế hoạch đề ra. Chi ngân sách hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo hoạt động của bộ máy, tăng xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng chi cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng - an ninh.

Công tác đoàn thể ở xã Thọ Hải trong giai đoạn này có những bước tiến mới. Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh các hoạt động xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư, nhóm tự quản, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc xã còn tích cực vận động nhân dân ủng hộ, sửa chữa nhà bị dột nát cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Đoàn Thanh niên được củng cố, kiện toàn đã đi vào hoạt động có hiệu quả, tổ chức tốt các phong trào sinh hoạt hè cho thiếu nhi. Hội Phụ nữ xã làm tốt công tác tuyên truyền kỉ niệm ngày 8- 3 và 20-10, tổ chức Đại hội phụ nữ từ xã tới cơ sở. Hội còn tích cực giúp đỡ nhau làm kinh tế gia đình. Hội Cựu chiến binh phát động phong trào xây dựng gia đình hội cựu chiến binh gương mẫu, vận động hội viên tích cực làm kinh tế giỏi.

Xây dựng Đảng

Để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Đảng bộ xã Thọ Hải luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng bộ thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục, tuyên truyền về truyền thống của Đảng, mít tinh kỉ niệm ngày thành lập Đảng. Thông qua các đợt học tập, tuyên truyền, đa số cán bộ, đảng viên đều thông suốt quan điểm, đường lối của Đảng, yên tâm tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Công tác kiểm tra được tiến hành thường xuyên, các chi bộ có quy chế làm việc, đảng viên trong chi bộ về sinh hoạt Đảng và chấp hành nghị quyết. Kết quả kiểm tra cho thấy các chi bộ đều chấp hành tốt chế độ sinh hoạt, đảm bảo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phát hiện mặt mạnh, mặt yếu của từng chi bộ, qua đó rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn.

Bên cạnh những thành tích đạt được, trong quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương giai đoạn 1991-1995, Đảng bộ xã Thọ Hải còn tồn tại một số mặt về chỉ đạo phát triển sản xuất, về trật tự xã hội, trật tự xây dựng và chất lượng sinh hoạt Đảng. Các đoàn thể quần chúng ở địa phương còn có những hạn chế cơ bản trong quá trình hoạt động và chỉ đạo hoạt động của mình: lề lối làm việc và phong cách lãnh đạo chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, công tác tuyên truyền, vận động hội viên còn hạn chế... Với tinh thần tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng, Đảng bộ nêu cao quyết tâm khắc phục những khuyết điểm còn tồn tại, xây dựng khối đoàn kết thống nhất, nâng cao tính chiến đấu và năng lực lãnh đạo toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.

Qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986-1995), Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải cùng ra sức phấn đấu khắc phục khó khăn, tổ chức sản xuất, kinh doanh, hoàn thành thắng lợi kế hoạch đề ra. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, bước đầu phát huy hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp có bước tăng trưởng khá. Trong xây dựng cơ bản đã huy động được khả năng của toàn dân để đầu tư cho các công trình phúc lợi. Kinh tế nhiều thành phần đã và đang được khuyến khích phát triển. Cơ chế thị trường đã đi vào cuộc sống theo hướng tích cực. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế ngày càng mở rộng, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và xã hội. Lĩnh vực quốc phòng - an ninh đã tạo ra những điều kiện cần thiết giữ vững ổn định chính trị, tạo ra môi trường lành mạnh cho Đảng bộ, nhân dân trong xã xây dựng quê hương trong điều kiện mới.

 Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân có nhiều tiến bộ quan trọng, trình độ, phẩm chất của đội ngũ lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết, tổ chức hướng dẫn nhân dân triển khai sự nghiệp đổi mới toàn diện, sâu sắc và đúng hướng, đưa sự nghiệp đổi mới trên quê hương Thọ Hải đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng những kết quả của Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đạt được cùng với những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn 10 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới đã tạo nên thế và lực mới giúp Đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể quần chúng và nhân dân toàn xã quyết tâm giành thắng lợi lớn ở những giai đoạn tiếp theo.

III. ĐẢNG BỘ XÃ THỌ HẢI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1996 - 2006)

1. Đảng bộ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội 1996 - 2000

Trải qua 10 năm, cùng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là sự ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, vững mạnh về Quốc phòng - An ninh. Những chủ trương, đường lối của Đảng, các Nghị quyết của Đảng bộ huyện qua các thời kỳ đã đi vào cuộc sống một cách kịp thời, góp phần củng cố và tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân. Điều đó đã tạo ra những tiền đề cơ bản cho Đảng bộ và nhân dân trong xã bước vào quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (1996-2006).

Trong quá trình phát triển kinh tế 5 năm (1996-2006), tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, năm sau tăng hơn năm trước. Năm 1996, tổng giá trị sản xuất đạt 6 tỷ 530 triệu đồng, năm 2000 đạt 14 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân năm đạt 22%, năm 2000 so với năm 1996 tăng 110% là 1,2 lần. Các ngành kinh tế có sự tăng trưởng toàn diện, trong đó tỷ trọng sản xuất nông - lâm nghiệp chiếm hơn 50%; công nghiệp tiểu thủ công nghiệp chiếm trên 30%; các ngành nghề dịch vụ và ngành nghề khác chiếm 20% . Cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Bình quân thu nhập theo đầu người năm 1996 đạt 950.000 đồng/người/n, năm 2000, đạt 2 triệu đồng/người. Sản xuất nông nghiệp trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn do thòi tiết diễn biến phức tạp: mưa lớn, rét đậm kéo dài... song nông nghiệp của xã Thọ Hải vẫn phát triên khá toàn diện. Quán triệt các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII, các Ban quản lý hợp tác xã đã được kiện toàn một bước. Triển khai, áp dụng những công nghệ mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như: che phủ nilon cho mạ chiêm, sử dụng nhiều giống mới cho năng suất cao... Mở các lớp hướng dẫn kỹ thuật gieo cấy, các lóp khuyến nông cho cán bộ và bà con nông dân trong xã. Với các biện pháp cụ thể về chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, khắc phục những khó khăn từng bước đưa năng suất và sản lượng lên cao một cách vừng chẳc. Từ năm 1996 đến năm 2006, tổng diện tích gieo trồng liên tục tăng đạt trên 500ha. Tổng sản lượng lương thực quy thóc của xã luôn giữ mức ổn định từ 3.000 - 3.200 tấn. Năng suất bình quân từ 600-700 kg/sào. Nhất là từ 1999 đến năm 2006, diện tích lúa lai có năng suất cao chiếm trên 40% tổng diện tích; bình quân lương thực đầu người đạt 230-270 kg/người/năm, đảm bảo an ninh lương thực cho nhân dân. Diện tích ngô, sắn, đậu, dong riềng được chuyển đổi sang trồng cây mía nguyên liệu.

Nhu cầu lương thực trong nhân dân được ổn định, vì thế ngành chăn nuôi phát triển mạnh mẽ cả về số lượng đàn và trọng lượng xuất chuồng. Công tác thú y cùng được Đảng ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo thường xuyên, hạn chế tối đa dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, số lượng đàn gia súc trong toàn xã cũng được tăng nhanh, tăng nhất là đàn bò. Năm 1996, toàn xã có 80 con, đến năm 2006 đàn bò có 216 con, tăng 43%. Tổng đàn gia cầm trong toàn xã đạt trên 5.000 con. Với diện tích mặt ao, hồ, lòng sông nhiều, xã đã chú trọng khuyến khích nhân dân nuôi cá nước ngọt, đặc biệt là nuôi cá lồng, hàng năm toàn xã thả đạt từ 15 - 25 ngàn con cá giống các loại. Thế mạnh, tiềm năng của nhà nông đang được khai thác có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống cho bà con trong xã.

Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ hàng năm đạt khá. Các ngành nghề phát triển đa dạng như xay xát, mộc dân dụng, vận tải, sản xuất gạch ngói, chế biến long nhãn... Tông giá trị trong 5 năm đạt 4 tỷ 900 triệu đồng.

Công tác xây dựng cơ bản trong 10 năm 1996-2006, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, sự hỗ trợ và nguồn đóng góp của nhân dân,  Hệ thống giao thông nông thôn hàng năm cũng được tu sửa, nâng cấp, hầu hết các tuyến đường liên thôn liên xã được mở rộng và cấp phối, 5 km trục đường kinh tế thôn Thọ Hải... trị giá hàng trăm triệu đồng. Từ năm 1996, tuyến đường liên huyện chạy qua xã đã được nhựa hóa, tạo điều kiện cho việc giao thương hàng hóa và đi lại của nhân dân. Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được tăng lên rõ dệt. Đến năm 2006, trong toàn xã đã có trên 80% số hộ gia đình xây được nhà bằng gạch ngói và nhà kiên cố nhà mái bằng nhà tầng, 10% hộ còn nhà tạm bợ, không còn nhà gác như trước đây. Các phương tiện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được tăng nhanh. Các phương tiện phục vụ đời sống nhân dân cũng được tăng lên, trong toàn xã nhiều hộ gia đình mua sắm được xe máy, ti vi và các đồ dùng, tiện nghi đắt tiền.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII, XXIV, XXV công tác quản lý tài chính của địa phương luôn được Đảng ủy, ủy ban nhân dân xã quan tâm chỉ đạo sâu sát. Đảng ủy chỉ đạo chính quyền vừa tận thu các nguồn đã có, từng bước xây dựng nguồn thu mới và nguồn hỗ trợ của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Do đó, về chi đã đảm bảo kế hoạch, ưu tiên chi phụ cấp cán bộ, chi các hoạt động ở cơ sở và chi cho xây dựng cơ vật chất, thu chi đảm bảo dân chủ, công khai. Các khoản đóng góp cho Nhà nước luôn hoàn thành đúng thời hạn. Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, Đảng bộ xã Thọ Hải không ngừng quan tâm đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, giáo dục. Quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VII), về phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của xã từng bước được xã hội hóa. Đảng ủy, ủy ban nhân dân xã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo nhà trường có đủ số phòng học. Xã đã căn bản xoá phòng học tranh tre, nửa lá và học 3 ca. Chất lượng dạy và học ở các cấp đã dạt được nhiều tiến bộ, kết quả hằng năm thi tốt nghiệp và vượt cấp đạt từ 95% trở lên, số học sinh thi lên cấp III đã tăng và có nhiều kết quả tốt. Riêng năm học 1999-2000, số học sinh Tiểu học đậu tốt nghiệp đạt 99,5%; học sinh Trung học cơ sở đạt 99.5%. Hằng năm số học sinh cấp III đăng ký thi vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đều tăng. Trong 5 năm, xã có 13 em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Hằng năm, các ngày khai trường đã trở thành ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường. Ngày 20-11, là ngày kỷ niệm lớn đối với các thầy cô giáo và cũng là ngày tôn sư, trọng đạo của nhân dân trong xã. Do đó, tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng các thầy cô vẫn cố gẳng khắc phục và vươn lên thi đua “dạy tốt, học tốt" và dạt dược nhiều kết quả cao.

Xây dựng Đảng và hoạt đồng nhân dân

Trong 10 năm 1996-2005, hoạt động của chính quyền có nhiều tiến bộ rõ rệt, chủ yếu tập trung vào việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Hội đồng nhân dân xã hoạt động theo luật định, hàng năm tổ chức 2 kỳ họp và các đợt tiếp xúc cử tri để lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân, đồng thời phát huy trí tuệ, dân chủ, đề ra được những nghị quyết sát hợp với tình hình thực tế của xã. Trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ xã khóa XXII, Đảng ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời cuộc bầu cử Quốc hội khóa XI, nhiệm kỳ 2000-2007 và cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 diễn ra vào ngày 25-4-2004, đảm bảo đúng luật, an toàn, 100% cử tri trong toàn xã tham gia bỏ phiếu và bầu đảm bảo số lượng đại biểu vào Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2004-2009.

Ủy ban xã đã xây dựng quy chế hoạt động chặt chẽ, đề ra chương trình công tác năm, quý, tháng, tuần. Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, phát huy năng lực của mỗi thành viên, phân công trách nhiệm, nhiệm vụ rõ ràng, xử lý, giải quyết dứt điểm các công việc tồn đọng trong quản lý ngân sách, đất đai, xây dựng cơ bản...

Trong quá trình quản lý thu - chi tài chính ngân sách, Ủy ban nhân dân xã thực hiện đúng luật và tiết kiệm không bỏ sót nguồn thu hoặc để quỹ ngoài ngân sách. Khai thác triệt để nguồn thu sẵn có của địa phương cũng như tạo nguồn thu mới như: đưa quỹ đất công ích vào ngân sách, đấu thầu, thu phí của những hộ kinh doanh, các công ty đóng trên địa bàn, thu từ nguồn đóng góp của nhân dân, từ các hộ mua bán chuyển quyền sử dụng đất ở và tài sản cũng như động viên nhân dân tham gia đóng góp các loại quỹ theo quy định của Nhà nước và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Từ nguồn thu trên, Ủy ban nhân dân dùng để chi trả lương, chi cho hoạt động quản lý và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng... Quá trình xây dựng cơ bản đảm bảo tuân thủ quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Ủy ban nhân dân xã.

Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh đã giúp hệ thống chính trị của xã thêm hoàn chỉnh, vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc là lực lượng tiên phong trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đẩy mạnh phong trào “Đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư”. Mặt trận Tổ quốc xã còn kết hợp với Hội Người cao tuổi triển khai thực hiện có hiệu qủa, phong trào “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, xây dựng cụm dân cư an toàn, gìn giữ tình làng, nghĩa xóm, phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng quỹ tình nghĩa và đi đầu trong việc thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ...

Đoàn Thanh niên xã Thọ Hải luôn là lực lượng xung kích trên các mặt trận. Đoàn đã duy trì tốt phong trào “Thanh niên tình nguyện, tuổi trẻ giữ nước”, “giúp nhau xoá đói giảm nghèo”, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ. Hàng năm, Đoàn đã đứng ra tổ chức các cuộc thi thể thao như: Bóng đá, bóng chuyền, hội diễn văn nghệ ở các thôn, làng tạo không khí vui tươi lành mạnh, thu hút được đông đảo đoàn viên, thanh niên, đội viên tham gia. Thông qua các phong trào, Đoàn đã kết nạp được hàng trăm đoàn viên mới và giới thiệu gần 100 đoàn viên ưu tú đi học các lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đảng.

Hội Phụ nữ xã thực hiện có hiệu quả phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và 6 chương trình công tác do Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam phát động. Trong 5 năm, Hội Phụ nữ xã đã tập trung củng cố và phát triển tổ chức hội. Đến năm 2005, Hội Phụ nữ xã đã thu hút được 90% chị em phụ nữ tham gia sinh hoạt. Hội đã tổ chức được nhiều buổi sinh hoạt phổ biến về phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, hiểu biết về pháp lý, không sinh con thứ 3...Thông qua các hoạt động, Hội đã giúp đỡ chị em nâng cao hiểu biết về pháp luật, tham gia hòa giải ở cơ sở. Phụ nữ là lực lượng đi đầu trong việc thực hiện tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc trẻ em. Trong 5 năm, Hội đã thành lập được nhiều tổ phụ nữ tiết kiệm ở các làng, với số tiền tình nguyện lên tới hàng chục triệu đồng, đứng ra tín chấp ngân hàng Chính sách huyện Thọ Xuân vay với số tiền hàng trăm triệu đồng giúp hội viên phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho gia đình hội viên.

Hội Nông dân xã đã chú trọng đến công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách phát triển nông nghiệp cho hội viên của tổ chức. Hội đã tích cực vận động hội viên mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các cây con có năng suất, giá trị kinh tế cao vào sản xuất và tích cực phổ biến cho nhân dân gieo trồng đúng nông lịch, đẩy mạnh cải tạo vườn tạp, vườn rừng, vườn đồi, xây dựng mô hình kinh tế hộ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Hội cựu chiến binh xã tiếp tục nêu cao tấm gương sáng, phát huy bản chất “Bộ đội cụ Hồ”, vận động hội viên tham gia xây dựng các phong trào của địa phương và giúp đỡ các hội viên xóa đói giảm nghèo.

Quán triệt xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng là yếu tố quyết định cho mọi thành công của địa phương. Do đó, công tác xây dựng Đảng luôn được Đảng bộ coi trọng trên cả ba mặt.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân được chú trọng quan tâm, góp phần nâng cao nhận thức về tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp, luật của Nhà nước như: Nghị quyết Đại hội IX của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết Trung ương 5, 6, 7, 8, 9, 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã được triển khai về xã kịp thời, đầy đủ, chương trình hành động được xây dựng phù hợp với tình hình của địa phương. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập các Nghị quyết, chủ trương của Đảng luôn đạt từ 96 - 100% số đảng viên trong Đảng bộ, quần chúng nhân dân tham gia học tập đạt từ 70 - 80%. Từ Chi bộ đến Đảng bộ đã có nhiều chủ trương, biện pháp để duy trì sinh hoạt hàng tháng, hàng quý, bảo đảm các loại tài liệu cho sinh hoạt chính trị, tư tưởng như: báo Nhân dân, báo Thanh Hóa, Thông tin nội bộ, Văn hóa thông tin, Xây dựng Đảng, sinh hoạt tư tưởng lý luận giúp cho đảng viên các Chi bộ cập nhật thông tin, vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên luôn có lập trường ổn định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện sự đoàn kết thống nhất, tuân thủ triệt để những vấn đề có tính nguyên tắc.

Nhiệm vụ củng cố tổ chức bộ máy cấp ủy Đảng, chính quyền luôn được quan tâm. Thực hiện các chủ trương của Trung ương, quy chế phân cấp quản lý cán bộ của tỉnh Thanh Hóa, huyện Thọ Xuân, công tác quy hoạch, đánh giá, nhận xét cán bộ được tiến hành công khai, dân chủ đúng quy trình. Đảng bộ luôn chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Từ năm 2001 đến năm 2005, Đảng bộ đã gửi đi đào tạo cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, bổ túc văn hóa cho hàng chục đồng chí, các đồng chí Chi ủy viên, Bí thư Chi bộ, trưởng thôn, Thường vụ các đoàn thể được tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Kết quả đánh giá hàng năm, đại đa số cán bộ đều hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được phân công. Công tác phát triển Đảng được các Chi bộ quan tâm, bồi dưỡng tạo nguồn. Trong nhiệm kỳ 2001-2005 đã kết nạp được 49 đảng viên mới.

Đi đôi với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hoạt động của Ủy ban kiểm tra Đảng được tăng cường, góp phần tích cực giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế, Điều lệ Đảng trong toàn Đảng bộ. Những cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút sức chiến đấu, buông lỏng kỷ luật Đảng, suy thoái về đạo đức, lối sống được kiểm điểm, uốn nắn kịp thời. Thông qua các hoạt động kiểm tra, chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên được nâng lên. Phong cách, lề lối làm việc của Đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể và các chi ủy đều có tiến bộ, đã từng bước đi vào kế hoạch, theo quy chế và có chiều sâu, kết hợp lý luận và thực tiễn, nâng cao được hiệu quả công tác.

Trong 5 năm (2000-2005), Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân đoàn kết phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cường được phát huy. Lòng tin giữa Đảng với dân được củng cố và tăng cường. Cùng với việc thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng sẽ là động lực để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã vững bước trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, tình hình xã trong nhiệm kỳ 1999-2005, vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: Lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế còn hạn chế trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng mô hình mới về phát triển kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, hiệu quả còn thấp. Quá trình thực hiện chưa đồng bộ, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn hạn chế, tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, ngành nghề chưa được mở rộng, dịch vụ còn nhỏ lẻ, đơn thuần, chưa sắp xếp lại được các khu vực sản xuất và kinh doanh, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân còn chậm, sức cạnh tranh thấp, thu nhập một số hộ nông dân còn thấp...

Những thành tựu cũng như hạn chế, thiếu sót là điều kiện cơ bản để Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

IV. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HUY ĐỘNG TỐI ĐA CÁC NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI  VÀO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI  2006 -2017

1. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội 2006 -2010

 Thực hiện Chỉ thị 46 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, ngay từ đầu năm 2005 cùng với việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã tích cực chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVI.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy tháng 5 năm 2005 Đảng bộ xã Thọ Hải tiến hành Đại hội lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2005-2010, được long trọng tổ chức tại Hội trường xã. Tham dự Đại hội có 187 đảng viên đang công tác, sinh hoạt tại các chi bộ trong toàn Đảng bộ. Đại hội tổng kết quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trong 5 năm qua (2000-2005), đề ra phương hướng, mục tiêu và các giải pháp lớn trong giai đoạn 2006-2010. Trong phiên họp phiên đầu tiên của Ban Chấp hành khóa XXVI đã bầu 3 đồng chí vào Ban Thường vụ Đảng ủy. Đồng chí Nguyễn Hải Châu được bầu làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Lê Viết Hùng được bầu làm Phó Bí thư - Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Thanh Vui được bầu làm trực Đảng. 

Đại hội đã đưa các mục tiêu chủ yếu năm 2006 - 2010

Đại hội đã đưa ra một số chương trình trọng tâm trong nhiệm kỳ. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học, trạm y tế. Thực hiện có hiệu quả chương trình kế hoạch xây dựng cánh đồng lúa thâm canh năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Tiếp tục có chính sách hỗ trợ kích cầu từ nguồn Ngân sách xã để đầu tư bê tông hoá một số tuyến đường làng, xóm còn lại. Bổ sung quy hoạch sử dụng đất, phấn đấu trong nhiệm kỳ các đơn vị thôn còn lại có diện tích đất để xây dựng nhà văn hoá thôn, đồng thời khai trương xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá.

Các mục tiêu chủ yếu

Về kinh tế: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân 13% trở lên. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp chiếm 40%; Tiểu thủ công nghiệp: 25%; Dịch vụ thương mại và xây dựng cơ bản: 35%, Thu nhập bình quân đầu người đến 2010 đạt 20,8 triệu đồng/năm. Ổn định sản lượng lương thực hàng năm đạt 5.200 tấn. Tổng thu nhập về giá trị đến 2010 đạt 121.700 triệu đồng trở lên. Trong đó: Nguồn kinh phí đầu tư XDCB trong 5 năm, dự kiến là: 38.424 triệu đồng.

Về Văn hoá - xã hội

Ổn định tỷ lệ phát triển dân số 0,3%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm 3%. Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh 95%. Phấn đấu trong nhiệm kỳ trường THCS và trường Tiểu học đạt chuẩn giai đoạn 2, trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1.

Đến năm 2010 cả 5/9 thôn có nhà văn hoá và được công nhận làng văn hoá cấp Huyện trở lên. Phấn đấu xây dựng nông thôn mới theo19 tiêu chí của đề án Quốc gia.

Xây dựng Quốc phòng - An ninh vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng, Chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội: Đảng bộ giữ vững đơn vị TSVM trong cả nhiệm kỳ. Hằng năm có trên 90% Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. 100% các Chi bộ đạt khá và trong sạch vững mạnh. Trong nhiệm kỳ kết nạp được 30-40 đảng viên mới, 100% các chi bộ bồi dưỡng và kết nạp được Đảng viên mới.

Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội. Tổ chức thành công cuộc bầu cử HĐND các cấp, đảm bảo an toàn dân chủ, đúng luật. Lãnh đạo thành công Đại hội các tổ chức Chính trị - Xã hội đảm bảo dân chủ, khách quan, đúng nguồn quy hoạch và các quy định của Điều lệ. Phấn đấu trong nhiệm kỳ các tổ chức đều đạt tiên tiến cấp Huyện trở nên.

Nhiệm vụ và giải pháp: Về phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, đây là nhiệm vụ trọng tâm của đảng bộ

Xây dựng các Hợp tác xã: Tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã dịch vụ điện năng, Hợp tác xã cầu phao Minh Hải. Phấn đấu thành lập được Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp đáp ứng nhu cầu dịch vụ sản xuất cho nhân dân.

Phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ: Khuyến khích phát triển các ngành nghề như: sản xuất vật liệu xây dựng, mộc, hàn sì, chế biến thức ăn gia súc và các dịch vụ buôn bán thương mại, nâng cấp chợ Hương và quản lý nguồn thu theo quy định. Tích cực tuyên truyền và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát triển dịch vụ thương mại ở dọc lộ 506 và trong các khu dân cư.

Quản lý đất đai, quản lý ngân sách: Thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng đất đai, đảm bảo đúng luật, đúng quy hoạch. Quy hoạch một số vùng đất thổ cư hợp lý để xây dựng mô hình Nông, công, thương kết hợp. Quản lý tốt các vùng đất thầu để tăng thu ngân sách.

Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Phát huy nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước cấp trên với phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm, ưu tiên đầu tư cho vùng lúa thâm canh năng xuất chất lượng, hiệu quả cao. Tu sửa nâng cấp chợ Hương, tu sửa, nâng cấp trạm y tế xã, xây dựng thêm 10 phòng học 2 tầng cho trường tiểu học, kè các tuyến bờ ao dọc đường vào Xuân Hưng; đầu tư kích cầu để bê tông hoá tuyến đường dọc kênh C1A, đường Nông Nội và đường Ải Bún.

 Văn hoá xã hội: Về xây dựng con người, gia đình và làng, xã văn hoá. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học  tập  và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phát động toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, xây dựng các gia đình văn hoá, làng văn hoá.

Về giáo dục: Thực hiện xã hội hoá giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và học ở cả 3 cấp, tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi được học tập, tiếp tục quan tâm xây dựng cơ sở vật chất các trường, đảm bảo các điều kiện phục vụ dạy tốt, học tốt. Phát huy hiệu quả của hội khuyến học, trung tâm học tập cộng đồng.

Về y tế và vệ sinh môi trường: Phát huy có hiệu quả mạng lưới y tế thôn, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, bảo vệ tốt sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện đề án xử lý rác thải, hoàn thành việc quy hoạch bãi đổ rác thải, đội vệ sinh môi trường. Đảm bảo nguồn nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các khu chợ, các hàng quán ăn uống, giải khát và những nơi công cộng. Thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt Hương ước làng.

Về văn hoá - thể thao: Thành lập và duy trì hoạt động các loại hình câu lạc bộ ở các cơ quan, trường học, các đơn vị thôn. Tổ chức hội thi, hội thao, hội diễn thu hút mọi người, mọi lứa tuổi tham gia.

Về thực hiện các chính sách xã hội: Thực hiện tốt các chính sách xã hội.

Về lĩnh vực Quốc phòng-An ninh: Xây dựng lực lượng Công an - dân quân vững mạnh, đảm bảo đủ sức để bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, có giải pháp tối ưu để quản lý số thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm. Thực hiện tốt chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm. Giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Về công tác xây dựng Đảng: Giáo dục chính trị tư tưởng: Thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ Đảng viên. Phối hợp với huyện mở các lớp chuyên đề, các lớp tập huấn cho cán bộ Đảng viên.

Công tác tổ chức: Chăm lo xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đề án nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, Đảng bộ. Quan tâm công tác đào tạo bồi dưỡng, quản lý, sắp xếp cán bộ phù hợp với năng lực trình độ và khả năng hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao.

Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình trong trong sinh hoạt tạo sự đoàn kết thống nhất cao, xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc, quy chế phối hợp trong hệ thống chính trị, đảm bảo cho cấp uỷ bao quát được toàn bộ các hoạt động ở địa phương để lãnh đạo.

Xây dựng chi bộ Đảng trong sạch vững mạnh. Tăng cường công tác quản lý và phân công Đảng viên, lãnh đạo thực hiện Nghị quyết của Đảng ngay tại cấp uỷ-Chi bộ, trú trọng việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu quả công việc.

Các Chi bộ phải tập trung xây dựng lực lượng kế cận cho Đảng, hàng năm đều bồi dưỡng kết nạp được Đảng viên mới. Các Cấp uỷ cần chủ động xây dựng chương trình công tác, thống nhất giải pháp và chỉ đạo cho các ngành, các cấp thực hiện.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch công tác, chủ động giải quyết, xử lý những vi phạm ngay tại địa phương. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, tiến hành rà soát cơ cấu, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện có, cán bộ trong diện quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng cho cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nguồn kinh phí để đáp ứng cho công tác đào tạo. Có chính sách khuyến khích để thu hút số con em có trình độ Đại học, cao đẳng về làm việc tại địa phương.

Xây dựng MTTQ và các đoàn thể: Tập trung xây dựng MTTQ các đoàn thể vững mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội, tăng cường công tác phối hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Phấn đấu đến nửa nhiệm kỳ hội CCB có 100% hội viên tham gia sinh hoạt phụ nữ 90%; Nông dân 85%; Đoàn thanh niên 60%. Các tổ chức đều đạt tiên tiến cấp huyện trở lên.

Về chính quyền: Tiếp tục nâng cao chất lượng Đại biểu HĐND, đổi mới nâng cao chất lượng các kỳ họp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Quyết định đúng đắn các mục tiêu nhiệm vụ hàng năm, gần gũi với cử tri, nắm bắt kịp thời những tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tổ chức tốt việc tiếp dân, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri.

Sau 5 năm (2005 - 2010), tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra

Phát triển kinh tế: Trong 5 năm qua, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân, bám sát vào Nghị quyết Đại hội XXVI. Khắc phục những khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng cường quản lý điều hành Nhà nước, kết quả cho thấy: Kinh tế địa phương đã phát triển năng động, các chỉ tiêu cụ thể hàng năm đều đạt khá, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều so với những năm trước đây. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân đạt 12,5%/năm, cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp chiếm 50%; Tiểu thủ công nghiệp chiếm 20%;  Dịch vụ thương mại và xây dựng cơ bản: 30%.

Tổng sản lượng lương thực qui thóc năm 2005 đạt: 5.100 tấn.; năm 2009 đạt 5.157 tấn, tăng 1,12%. Bình quân thu nhập đầu người năm 2005 đạt: 718 kg/người, năm 2009 đạt 876kg/người; tăng 22 %. Tổng thu nhập về giá trị: Năm 2005 là 23,4 tỷ đồng, năm 2009 là 58,780 tỷ đồng, tăng: 151%. Thu nhập bình quân đầu người:Năm 2005: 3,3 triệu đồng/người/năm, năm 2009 là 9,98 triệu đồng/người/năm, tăng: 202,10%.

Sản xuất nông nghiệp: Cây lúa với diện tích gieo trồng cả năm: 542 ha, năng suất bình quân: 60tạ/ha. Sản lượng đạt: 3.253 tấn. Cây ngô bãi và đồng màu: diện tích gieo trồng: 312 ha, năng suất bình quân: 52 tạ/ha, sản lượng quy thóc đạt: 1.624 tấn; Các loại cây chất bột khác: diện tích gieo trồng ước đạt: 87 ha, sản lượng quy thóc ước đạt: 281 tấn. Cây mía: Mấy năm gần đây do việc tổ chức thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, một số diện tích lúa, màu, có năng suất và giá trị thu nhập thấp chuyển sang trồng mía nguyên liệu, năm 2004 diện tích trồng mía là 25 ha, sản lượng: 1.500 tấn, đến nay diện tích mía đạt 95,1 ha, sản lượng đạt: 7.608 tấn. Tổng giá trị thu nhập đạt 4.564 triệu đồng.

Về chăn nuôi:  Đến năm 2010 đàn trâu bò có 950 con, đàn lợn 850 con, đàn gia cầm: 12.000 con, tổng giá trị về chăn nuôi đạt 13.653 triệu đồng. So với năm 2005 tăng 179,7%  (tổng thu nhập nhập ngành chăn nuôi năm 2005 đạt 4.880 triệu).

Tiểu thủ công nghiệp: Thu nhập về tiểu thủ công nghiệp năm 2005: 1.983 triệu đồng; năm 2009 đạt 3.360 triệu đồng, tăng 69,4%.

Dịch vụ thương mại: Những năm gần đây dịch vụ thương mại được mở rộng loại hình kinh doanh, hàng hoá đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho nhân dân. Thu nhập về dịch vụ thương mại năm 2005 đạt: 989 triệu đồng; năm 2009 đạt: 2.240 triệu đồng, tăng 126,5%. Các nguồn thu khác: (lao động xuất khẩu, lương hưu, trợ cấp xã hội ...) năm 2009 đạt 11.757 triệu đồng.

Hoạt động các hợp tác xã và các trang trại: 3 Hợp tác xã hình thành và hoạt động có hiệu quả góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, HTX điện đã đầu tư nâng cấp hệ thống lưới điện, đảm bảo cung cấp điện sản xuất, sinh hoạt cho nhân dân, Quỹ Tín dụng đã mở rộng địa bàn hoạt động, HTX cầu phao Minh Hải thường xuyên tu sửa cầu, đảm bảo giao thông đi lại thông suốt và an toàn. Hoạt động trang trại: những năm đầu nhiệm kỳ các mô hình kinh tế trang trại, gia trại từng bước được hình thành và phát triển, nhưng hiện nay do giá cả thị trường biến động nên hoạt động trang trại, gia trại có chiều hướng kém hiệu quả.

 Công tác quản lý đất đai: Trong nhiệm kỳ 2005-2010 việc quản lý sử dụng đất đai ở địa phương được thực hiện nghiêm túc, đúng luật dưới sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của UBND huyện Thọ Xuân. Từ năm 2005-2009 đã chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho 124 hộ với diện tích 16.221m2 tổng số tiền đấu giá: 5.260.646.000đ; sau khi trừ kinh phí giải phóng mặt bằng: Ngân sách xã được sử dụng 50% để đầu tư vào xây dựng cơ bản.

Công tác quản lý tài chính ngân sách: Tổng thu ngân sách xã năm 2005 là 1.553 triệu đồng, năm 2009 là 3.546 triệu đồng, tăng 128,3%.Tổng chi ngân sách xã năm 2005 là 1.370 triệu đồng, năm 2009 là 3.546 triệu đồng, tăng 158,8%.

Đầu tư xây dựng cơ bản: Trong nhiệm kỳ đã tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng được nhiều hạng mục quan trọng như tổng kinh phí lên tới gần 30 tỷ đồng; Trong đó công trình phúc lợi công cộng là 12 tỷ đồng, khu vực dân cư trên 17 tỷ đồng cụ thể như: Xây dựng trường THCS, nâng cấp trường tiểu học, xây dựng trường mầm non trung tâm, tu sửa trường mầm non khu vực 3, tu sửa, cống, kênh và các cống nội đồng, đường liên xã Thọ Hải-Thọ Minh, đường giao thông nông thôn, đường vào 3 khu vực nghĩa địa, xây dựng công sở hành chính xã với tổng mức đầu tư 7,2 tỷ đồng. Trong đó ngân sách cấp trên hỗ trợ là 3,49 tỷ đồng, ngân sách xã đầu tư là 3,43 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 280 triệu đồng. Ngoài ra, ngân sách Nhà nước cấp trên còn đầu tư làm tuyến đường liên xã Thọ Hải - Xuân Hưng trị giá gần 4 tỷ đồng; nhân dân 8 thôn còn bỏ ngày công, đóng góp bằng tiền, vật liệu để bê tông hoá đường làng ngõ xóm trị giá hàng tỷ đồng.

Văn hoá xã hội

Về giáo dục: Cơ sở vật chất các trường được xây dựng khang trang, chất lượng dạy và học ở cả 3 cấp ngày càng được nâng lên, tỷ lệ giáo viên, học sinh giỏi ngày càng tăng. Số cháu thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều: Năm 2005 có 31 em đến năm 2009 là 50 em.

Về y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình: Các chương trình Quốc gia về y tế, dân số KHHGĐ được triển khai và thực hiện nghiêm túc. Công tác chăm sóc SKBĐ, phòng chống dịch bệnh cho nhân dân thường xuyên được quan tâm, không để dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn, tỷ lệ dân số phát triển ổn định từ 0,3 đến 0,4%.

Các phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục - thể thao được duy trì thường xuyên, đặc biệt là các ngày lễ tết được phát động với sự hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã. Công tác thông tin tuyên truyền được duy trì đều đặn các chủ trương đường lối của Đảng,chính sách pháp luật của nhà nước được đưa tin đầy đủ, kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng đến với mọi người dân.

Phong trào xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư được triển khai và thực hiện tương đối tốt. Đã có 5/9 thôn khai trương xây dựng làng văn hoá và 1 cơ quan văn hoá, có 2 làng được công nhận làng văn hoá cấp huyện.

Về thực hiện các chính sách xã hội: Thực hiện nhiều chủ trương chính sách mới, công khai, dân chủ, khách quan và đúng quy định. Công tác xoá đói giảm nghèo  ngày càng được quan tâm . Việc xoá nhà tranh tre dột nát và ổn định chỗ ở cho đồng bào trên sông được quan tâm đúng mức. Trong nhiệm kỳ đã làm được 19 nhà đại đoàn kết với tổng số tiền và ngày công vận động, ủng hộ  được trên 120 triệu đồng, xây nhà ở cho 4 hộ sinh sống trên sông để ổn định chổ ở. Hằng năm giảm được từ 3 đến 3,5% tỷ lệ  hộ nghèo. Năm 2005 có 360 hộ, năm 2009 có 188 hộ giảm 172 hộ.

Quốc phòng an ninh: Công tác Quốc phòng-An ninh được triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho nhân dân, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hằng năm đều hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân. Tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ đảm bảo cả số lượng, chất lượng, phương án phòng chống bão lụt được thực hiện có hiệu quả. Đảng bộ lãnh đạo chính quyền củng cố xây dựng lực lượng công an xã, dân quân tự vệ, đảm bảo đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ quốc phòng - an ninh của địa phương, thường xuyên chỉ đạo công tác phối hợp giữa các tổ chức, đoàn thể, ban ngành, nhà trường tuyên truyền giáo dục và tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào địa bàn. Toàn xã đã hình thành 83 tổ an ninh xã hội và thực hiện tốt đề án 138 của Tỉnh, các tổ đi vào hoạt động có hiệu quả, các tệ nạn xã hội ở địa phương được giảm thiểu đáng kể.

Công tác chính trị tư tưởng: Trong nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ luôn được quan tâm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ban chấp hành Đảng bộ luôn đổi mới và nâng cao chất lượng trong  tổ chức, quán triệt Nghị quyết của Đảng, các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên. Trong 4 năm gần đây chúng ta đã tổ chức nghiên cứu các chuyên đề về tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh, phát động phong trào học tập và làm theo tấm gương Đạo đức của Người. Một số điển hình tiêu biểu xuất hiện, tạo được sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội 26 của Đảng bộ và Đại hội Đảng các cấp.

Công tác tổ chức và cán bộ: Song song với công tác chính trị tư tưởng từ năm 2005-2010, Đảng bộ đã tập trung xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Xây dựng và thực hiện các đề án đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của chi bộ, các tổ chức chính trị, xã hội. Đã quy hoạch bố trí và cử cán bộ đi đào tạo được:  22 lượt, trong đó: Trung cấp lý luận chính trị  là 8, Trung cấp Quản lý Nhà nước là 5, Trung cấp Địa chính - Xây dựng: 1, Trung cấp Văn phòng - Thống kê: 2, Trung cấp Nghiệp vụ công an:1, Xã đội trưởng: 1, Trung cấp Pháp lý: 2, Trung cấp Quản lý văn hoá: 2.  Trong nhiệm kỳ đã tổ chức Đại hội kiện toàn: 9 Tổ chức chính trị xã hội, đảm bảo đúng quy trình, dân chủ, khách quan, đúng nguồn quy hoạch (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, cựu chiến binh, UBMTTQ. Hội cựu TNXP, Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội liên hiệp thanh niên).

Về xây dựng chính quyền: Những năm qua hoạt động của HĐND ngày càng đi vào nề nếp, chất lượng. Nội dung phương thức hoạt động có nhiều đổi mới, chất lượng đại biểu, chất lượng từng kỳ họp được nâng cao. Các kỳ họp của HĐND được thực hiện dân chủ, đúng luật. HĐND xã thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

UBND xã đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý điều hành, luôn luôn đổi mới, cải tiến phương pháp làm việc, thực hiện tốt việc cải cách hành chính. Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong giao dịch. UBND xã đã bám sát vào chủ trương của Cấp uỷ, Nghị quyết của HĐND để tổ chức thực hiện. Phát huy được vai trò, chức năng của Nhà Nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, từng bước đưa nền kinh tế, xã hội ở địa phương phát triển đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ công chức xã đều thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định đến nay gần 90% số cán bộ công chức xã đã được chuẩn hoá.

Hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội: MTTQ các đoàn thể luôn luôn chăm lo, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện có hiệu quả các chương trình phối hợp, xây dựng tổ chức vững mạnh. Thường xuyên phát động và thực hiện nhiều phong trào thi đua có nội dung và ý nghĩa thiết thực như: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, phong trào đền ơn đáp nghĩa, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo, gia đình, dòng họ hiếu học, phong trào thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước, đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Hội Cựu chiến binh đã từng bước nâng cao được chất lượng và hiệu quả hoạt động, thu hút được đông đảo hội viên tham gia với 450 hội viên sinh hoạt ở 9 chi hội.

Hội Phụ nữ đã tổ chức được nhiều phong trào có ý nghĩa thiết thực như: Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, phong trào chị em giúp nhau phát triển kinh tế gia đình … thu hút được đông đảo hội viên tham gia với tổng số hội viên hiện nay là: 1026 chi em.

Hội Nông dân với phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi, nông dân với an toàn giao thông … đã thu hút được đông đảo hội viên vào sinh hoạt và xây dựng hội.

Đoàn Thanh niên với phong trào thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước, phong trào tiếng trống Đội ta, hiến máu nhân đạo… đã thu hút được nhiều đoàn viên, thanh niên tham gia.

Công tác xây dựng Đảng: Trong nhiệm kỳ 2005-2010, các chi bộ đã thường xuyên chăm lo đến công tác phát triển đảng viên mới, bổ sung nguồn kế cận và sức chiến đấu cho Đảng. Đã bồi dưỡng kết nạp được 26 Đảng viên mới. Năm 2005 kết nạp được 28 đảng viên, năm 2009 kết nạp được 06 đảng viên (giảm 02). Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ trong 5 năm qua vai trò lãnh đạo của Đảng và chất lượng của tổ chức Đảng đã được khẳng định. Các chi bộ đạt danh hiệu TSVM ngày càng cao, không còn chi bộ yếu kém, năm 2005 có 11/11 chi bộ đạt TSVM, năm 2009 có 12/12 chi bộ đạt TSVM. Tỷ lệ đảng viên hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước.  Năm 2005 có 206 đảng viên được đánh giá phân loại, trong đó 156  đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt 75,7%.  Năm 2009 có 173 đảng viên được đánh giá phân loại, trong đó 157 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt 90,75%. Đảng bộ từ đơn vị đạt khá năm 2005, đến nay liên tục đạt trong sạch vững  mạnh.

 Công tác kiểm tra, giám sát: Trong nhiệm kỳ 2005-2010 UBKT của Đảng uỷ luôn luôn bám vào các quy định của điều lệ, các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng các cấp để hoạt động. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, UBKT Đảng uỷ đã xây dựng quy chế hoạt động và kế hoạch kiểm tra hàng năm, tổ chức các cuộc kiểm tra, giúp cho Đảng uỷ nắm bắt kịp thời và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Tổ chức kiểm tra giám sát 134 lượt đối với tổ chức và cá nhân theo đúng quy chế, kiểm tra xử lý 4 trường hợp. Trong đó: cảnh cáo1, khiển trách 3.

Công tác dân vận và công tác văn phòng cấp uỷ: Những năm qua Đảng bộ đã lãnh đạo công tác dân vận. Tăng cường công tác tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vận động nhân dân tham gia tích cực và thực hiện được nhiều chương trình dự án như: vận động đóng góp tự nguyện xây dựng đường giao thông nông thôn, đường liên xã Thọ Hải - Thọ Minh, vận động các bậc phụ huynh đóng góp xây dựng trường, các phong trào ủng hộ từ thiện, xây dựng nhà Đại đoàn kết toàn dân, xoá nhà tranh tre nứa lá, phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới ở cộng đồng dân cư, đóng góp xây dựng nhà văn hoá thôn …

Văn phòng cấp uỷ luôn làm tốt công tác tham mưu, giúp việc cho BCH. Thực hiện việc quản lý, lưu trữ  hồ sơ Đảng viên, theo dõi việc giao nhận công văn, giấy tờ, báo cáo, các tài liệu của Đảng. Thực hiện việc thu - chi Đảng phí đúng quy định, giúp BCH chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết phục vụ các hội nghị Đảng bộ, hội nghị BCH.

Mối quan hệ giữa Đảng uỷ - HĐND - UBND-MTTQ và các đoàn thể: Trong nhiệm kỳ BCH luôn giữ mối quan hệ với TT HĐND-UBND-MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội. Tất cả các chương trình, đề án tổ chức triển khai thực hiện đều được báo cáo trước BCH Đảng uỷ. Hàng tháng, hàng quý đều tổ chức các buổi giao ban thường trực để nắm bắt tình hình và thống nhất các giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Nhìn chung từ năm 2005-2010, Đảng bộ đã tập trung sự lãnh đạo đã được sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Các nhiệm vụ chính trị mà Nghị quyết đại hội XXVI đề ra cơ bản hoàn thành. Nhiều mục tiêu đạt và vượt mức kế hoạch. Kinh tế địa phương phát triển khá. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng và đoàn kết cùng nhau xây dựng quê hương. Có được những kết quả trên là do sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và toàn thể nhân dân, vai trò lãnh đạo của cấp uỷ các cấp, sự quản lý điều hành của chính quyền địa phương, sự nhiệt tình, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị, sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình của các thế hệ cán bộ Thọ Hải qua các thời kỳ, sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của Huyện ủy - HĐND  UBND và các ban ngành cấp huyện, cấp tỉnh. Tất cả đã tạo đà, tạo thế thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã.

2. Thọ Hải phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp hóa nông thông xây dựng nông thôn mới  2010 - 2015

Thực hiện chỉ thị số 37 - CT/TW ngày 04-08-2009 của Bộ Chính trị và kế hoạch số 40 KH/TU ngày 12-11- 2009 của Tỉnh ủy Thanh Hóa về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng, trong 2 ngày 01 và 02-6-2010, Đảng bộ xã Thọ Hải tiến hành Đại hội lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Tham dự Đại hội có 230 đảng viên của 12 Chi bộ trong toàn Đảng bộ.

 Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XXVII gồm 13 đồng chí và bầu ra 3 đồng chí trong Ban Thường vụ, đồng chí Nguyễn Hải Châu được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Lê Viết Hùng được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,đồng chí Nguyễn Thanh Vui được bầu làm Phó Bí thư Thường Trực xã.       

Trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ và những chương trình trọng tâm cần thực hiện đến năm 2015.Đại hội đã xây dựng một số chương trình trọng tâm:

* Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học, trạm y tế.

* Thực hiện có hiệu quả chương trình kế hoạch xây dựng cánh đồng lúa thâm canh năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.

* Tiếp tục có chính sách hỗ trợ kích cầu từ nguồn Ngân sách xã để đầu tư bê tông hoá một số tuyến đường làng, xóm còn lại. Bổ sung quy hoạch sử dụng đất, phấn đấu trong nhiệm kỳ các đơn vị thôn còn lại có diện tích đất để xây dựng nhà văn hoá thôn, đồng thời khai trương xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá.

Các mục tiêu chủ yếu

Về kinh tế: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân 13% trở lên. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp chiếm 40%; Tiểu thủ công nghiệp: 25%; Dịch vụ thương mại và xây dựng cơ bản: 35% Thu nhập bình quân đầu người đến 2015 đạt 20,8 triệu đồng/năm. Ổn định sản lượng lương thực hàng năm đạt 5.200 tấn. Tổng thu nhập về giá trị đến 2015 đạt 121.700 triệu đồng trở lên.Trong đó: Nguồn kinh phí đầu tư XDCB trong 5 năm, dự kiến là: 38.424 triệu đồng.

Về Văn hoá - xã hội: Ổn định tỷ lệ phát triển dân số 0,3%. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm 3%. Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh 95%. Phấn đấu trong nhiệm kỳ trường THCS và trường Tiểu học đạt chuẩn giai đoạn 2, trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 1. Đến năm 2015 cả 9 thôn có nhà văn hoá và được công nhận làng văn hoá cấp Huyện trở lên. Phấn đấu xây dựng nông thôn mới theo19 tiêu chí của đề án Quốc gia.

Về Quốc phòng an ninh: Xây dựng Quốc phòng - An ninh vững mạnh. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Giữ vững đơn vị TSVM trong cả nhiệm kỳ. Hàng năm có trên 90% Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. 100% các Chi bộ đạt khá và trong sạch vững mạnh. Trong nhiệm kỳ kết nạp được 30-40 Đảng viên mới. 100% các chi bộ bồi dưỡng và kết nạp được Đảng viên mới.

Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội: Tổ chức thành công cuộc bầu cử HĐND các cấp, đảm bảo an toàn dân chủ, đúng luật. Lãnh đạo thành công Đại hội các tổ chức Chính trị - Xã hội đảm bảo dân chủ, khách quan, đúng nguồn quy hoạch và các quy định của Điều lệ. Phấn đấu trong nhiệm kỳ các tổ chức đều đạt tiên tiến cấp Huyện trở nên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Trong 5 năm qua Đảng bộ và nhân dân xã Thọ Hải bước vào triển khai thực hiện Nghị quyết trong điều kiện có nhiều thuận lợi; có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cấp trên đối với địa phương về quy hoạch đô thị, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, bước đầu phục vụ có hiệu quả cho việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của xã. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản chúng ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức; kinh tế sau khủng hoảng phục hồi chậm, nhà nước cắt giảm đầu tư công. Trong nước, chịu nhiều ảnh hưởng của việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép, xâm phạm chủ quyền Biển Đảo; giá cả các mặt hàng nông nghiệp không ổn định; sản phẩm hàng hóa sức cạnh tranh kém.... Bên cạnh đó, tình hình thời tiết, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường đã tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đời sống của nhân dân. 

Song với tinh thần quyết tâm cao của cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và sự quan tâm giúp đỡ của tỉnh, huyện, Đảng bộ đã lãnh đạo hoàn thành cơ bản các mục tiêu kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh; xây dựng hệ thống chính trị mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XXVII đã đề ra. 

Về phát triển kinh tế: chuyển dịch đúng hướng, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo chương trình “Xây dựng nông thôn mới”. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân hàng năm 15,4% vượt mục tiêu đại hội nhiệm kỳ 2010-2015 2,4% (Mục tiêu 13%). Trong đó ngành nông nghiệp bình quân tăng 4,9%, công nghiệp- Xây dựng tăng 18,7 %, dịch vụ tăng 23,9%. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực. Năm 2015 tình hình cơ cấu kinh tế các ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ như sau: Nông- lâm nghiệp- thủy sản chiếm 31,1%; Công nghiệp- xây dựng chiếm là 23.2%; Dịch vụ chiếm: 51,6%. Mục tiêu Đại hội nhiệm kỳ 2010 - 2015 đề ra (40%-25%-35%). Bình quân thu nhập đầu người năm 2014 ước đạt 20,14 triệu đồng/ người/ năm (Mục tiêu 20,8 triệu đồng/ người/ năm).         

Về sản xuất nông nghiệp: Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ, đưa trên 80% diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao vào gieo trồng ở cả 2 vụ. Quy hoạch và vận động nhân dân chuyển một số diện tích đất màu và đất 2 lúa ở những vùng cao khó lấy nước sang các loại cây trồng khác đã cho hiệu quả cao hơn. vùng chuyên canh các loại rau màu thôn Hải Tân không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, với số diện tích trên 8,7 ha, thu nhập bình quân 150 triệu đồng/ha/năm, hàng năm cho thu nhập lên tới 1 tỷ 305 triệu đồng. Nhân dân trong xã đã đầu tư mua sắm được 16 máy nông nghiệp, gần 80% diện tích đất gieo trồng được làm bằng máy, trên 50% diện tích lúa gặt bằng máy gặt đập liên hợp, bước đầu đã chuyển đổi thành công đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang hoạt động ngành nghề khác.

 Kết quả đạt được: (thời kỳ 2010 - 2015). Tổng thu nhập ngành nông nghiệp là: 68,148 tỷ đồng, đạt 107,2% so với Nghị quyết.Trong đó: Trồng trọt: 36,782 tỷ đồng; đạt 107% so với Nghị quyết. Chăn nuôi: 31,366 tỷ đồng; đạt 101,4% so với Nghị quyết. Thủy sản là 124,2 triệu đồng; đạt 108,9% so với Nghị quyết.

Về TTCN - Xây dựng cơ bản: Do có lợi thế về địa lý nên Thọ Hải có điều kiện giao lưu để phát triển nhiều ngành nghề và kinh tế. Trong 5 năm qua nhiều tổ thợ nề có uy tín không những đã tự đảm đương được các công trình lớn trong xã mà vươn ra địa bàn trong huyện, trong tỉnh với số lao động có tay nghề cao ngày càng nhiều. Các tổ thợ cơ khí, thợ mộc, thợ sửa chữa xe máy đã được đầu tư có chiều sâu, ngày càng nâng cao chất lượng để chiếm lĩnh thị trường trong khu vực. Kết quả thu nhập từ hoạt động tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng bình quân 18,7%/năm.

Hoạt động dịch vụ - thương mại: Mặc dù bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, kinh tế trong nước, các hoạt động dịch vụ, thương mại lưu thông, phân phối trên địa bàn xã vẫn tiếp tục phát triển. Một số hộ đã đầu tư nâng cấp nhiều cửa hàng, cửa hiệu, mở rộng địa bàn kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường không những trong xã mà đã vươn ra xa trên địa bàn của tỉnh. Cho đến nay đã có trên 200 hộ kinh doanh dịch vụ thương mại. Toàn xã có 18 xe ô tô vận tải và xe ô tô chở khách trong đó có 4 xe con. Hoạt động kinh doanh dịch vụ, lưu thông phân phối có nhiều sáng tạo, do đó đã giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, nhiều hộ có thu nhập cao, góp phần tích cực tạo sự chuyển dịch và phát triển kinh tế địa phương, thu nhập từ hoạt động dịch vụ thương mại tăng bình quân 23,9%/ năm.

Tài chính, ngân sách, tín dụng: Về tài chính ngân sách: Cấp ủy, chính quyền đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, vận dụng cơ chế sáng tạo, tận dụng các nguồn thu. Tổng thu ngân sách giai đoạn 2010 - 2014 là 27 tỷ đồng, tăng 120,47% so với kế hoạch. Tổng chi ngân sách 27 tỷ đồng, tăng 120,47% so với kế hoạch.

Về tín dụng: Nguồn vốn từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đã góp phần tích cực cho phát triển sản xuất, kinh doanh với số vốn vay luân chuyển thường xuyên trên 58,2 tỷ đồng. Quỹ tín dụng ngày càng phát triển và uy tín trong hoạt động kinh doanh đã mở rộng địa bàn thêm 2 xã (Thọ Diên, Xuân Hưng), gồm 1.700 thành viên với tổng số vốn huy động trên 66 tỷ đồng, các thủ tục tiền gửi, tiền vay nhanh gọn tạo được lòng tin và uy tín trong nhân dân.

Về quản lý đất đai: Trong nhiệm kỳ công tác quản lý đất đai, được thực hiện nghiêm túc, đúng luật, dưới sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện và các phòng ngành chức năng. Tổng diện tích tự nhiên là: 708,73 ha. Trong đó: Đất nông nghiệp: 471,25 ha, đất phi nông nghiệp:180,66 ha, đất chưa sử dụng: 56,82 ha (bãi cát, sạnh đê), đất ở hộ gia đình 71,21 ha gồm 2.033 thửa, đã cấp 2.022 giấy CN QSDĐ; chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho 130 hộ với tổng diện tích 22.260,5 m2. Việc cấp giấy CN QSDĐ, chuyển đổi mục đích sử dụng đất được thực hiện đúng pháp luật.

  Văn hóa - xã hội: Được Cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học. Trong 5 năm qua đã xây dựng thêm một khu nhà 2 tầng 10 phòng tại trường Tiểu học, khu nhà 01 tầng 6 phòng, tu sửa nâng cấp nhà hiệu bộ dãy nhà chức năng, nhà xe trường trường trung học cơ sở, một khu nhà 2 tầng 4 phòng và công trình phụ trợ tại trường Mầm non; đầu tư mua trang thiết bị phục vụ dạy và học.

Ban Chấp hành Đảng bộ xã chỉ đã thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TW8 (khóa XI) về đổi mới căn bản về giáo dục đào tạo, các trường tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng dạy và học, 100% giáo viên của các cấp trường đạt chuẩn và trên chuẩn, nhiều giáo viên đạt thành tích cao trong giảng dạy và có sáng kiến kinh nghiệm, chất lượng giáo dục đại trà ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá giỏi năm sau cao hơn năm trước, hàng năm học sinh thi đậu vào trường trung học phổ thông đạt bình quân trên 80%; trong 5 năm qua đã có 138 học sinh phổ thông thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học. Đã xây dựng trường Mầm non, trường Tiểu học, trường trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1, thực hiện xã hội hóa giáo dục, phát huy hiệu quả trung tâm giáo dục cộng đồng đã phối kết hợp và mở được 70 lớp học tại địa phương thu hút trên 5.600 lượt người tham gia.

Về văn hóa, thông tin, thể dục thể thao: Các hoạt động văn hóa về cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" đã thu hút được đông đảo nhân dân hưởng ứng tham gia. Chất lượng hoạt động của các làng văn hóa được nâng lên; nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang được thực hiện có hiệu quả. Hàng năm có từ 72 - 76% hộ đạt gia đình văn hóa, trên 70% gia đình đạt danh hiệu ông bà mẫu mực con cháu hiếu thảo, có 6/9 thôn được công nhận làng văn hóa cấp huyện, đạt 66,7%, 2/3 trường đạt cơ quan văn hóa.

Các hoạt động văn hóa, như tổ chức hội thi của thôn, xã, tham gia các cuộc thi của huyện... quan tâm nâng cấp hệ thống truyền thanh; nâng cao nội dung, chất lượng bài viết, thông tin... đã góp phần nâng cao kiến thức, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Phong trào thể dục, thể thao được duy trì và phát triển, số người tham gia thể dục, thể thao ngày càng đông  ở mọi lứa tuổi.

Y tế, vệ sinh môi trường: Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia theo bộ tiêu chí mới, thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Các chương trình mục tiêu y tế Quốc gia, y tế dự phòng, đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được tổ chức triển khai sâu rộng, tạo được sự chuyển biến tích cực. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, KHHGĐ, tiêm chủng mở rộng được duy trì thường xuyên, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn, số lượng người dân tham gia BHYT ngày càng tăng đến năm 2015 có trên 70% số người có BHYT, Tỷ lệ phát triển dân số ổn định ở mức 0,3%/năm.

Công tác vệ sinh môi trường luôn được quan tâm, rác thải sinh hoạt được thu gom thường xuyên, các đoàn thể, chi hội đã đảm nhận và gắn biển các đoạn đường tự quản và tổ chức làm vệ sinh theo định kỳ; ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân ngày càng được nâng cao, góp phần giảm ô nhiễm môi trường trong khu dân cư, trên các tuyến đường liên xã, liên thôn. Đã quy hoạch 01 bãi rác tập trung DT 0,16 ha, 9/9 thôn thu gom rác thải về nơi quy định.

Thực hiện chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo: Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng ủy xã Thọ Hải đã triển khai thực hiện nhiều chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước, tổ chức phổ biến, thiết lập, duyệt hồ sơ kịp thời, công khai dân chủ, đúng đối tượng, đúng quy định, Các chế độ của các gia đình chính sách, các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Hoàn thành trợ cấp cho những người tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước theo Quyết định 142 của Chính phủ. Lập hồ sơ đề nghị trợ cấp cho những người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới và tham gia giúp nước bạn Lào, Campuchia từ sau 30/4/1975 theo Quyết định 62-QĐ/TTG của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2015 đã cấp cho những người tham gia bảo vệ Tổ quốc trong 2 cuộc kháng chiến và chiến tranh biên giới với tổng số tiền 1 tỷ 770,7 triệu đồng.

Công tác xóa đói giảm nghèo ngày càng được quan tâm, trong nhiệm kỳ đã làm được 15 nhà đại đoàn kết với số tiền và ngày công vận động, ủng hộ trên 150 triệu đồng, hỗ trợ xây nhà ở cho 7 hộ sinh sống trên sông, việc bình xét, rà soát hộ nghèo hàng năm được thực hiện công khai dân chủ xét duyệt đúng quy định, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 14,47% xuống 5,04%, bình quân giảm 1,9%/năm, số hộ cận nghèo từ 6,98% xuống 4,46%, bình quân giảm 0,5%/năm.

Chương trình Xây dựng nông thôn mới là chương trình trọng tâm của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2010 -2015

Ban Chấp hành Đảng ủy xã Thọ Hải đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị để vận động toàn dân chung sức Xây dựng nông thôn mới với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân hưởng thụ”. Ban Chấp hành Đảng bộ đã ra Nghị quyết chuyên đề lãnh đạo thực hiện chương trình Xây dựng nông thôn mới, thành lập ban chỉ đạo và ban quản lý Xây dựng nông thôn mới các thôn.Xây dựng đề án Xây dựng nông thôn mới và được nhân dân đồng tình ủng hộ. trong nhiệm kỳ đã đầu tư xây dựng nâng cấp nhiều hạng mục công trình từng bước hoàn thành các tiêu chí Xây dựng nông thôn mới.

Kết quả cho đến nay có 5 thôn hoàn thành 12/14 tiêu chí, 4 thôn hoàn thành 11/14 tiêu chí Xây dựng nông thôn mới; có 8/9 thôn có nhà văn hoá khang trang, còn lại 01 thôn (Ngọc Thành) đã cấp đất nhà văn hóa. Với tổng số vốn đầu tư Xây dựng nông thôn mới trong 5 năm qua là 14,05 tỷ đồng, trong đó: Vốn nhân dân đóng góp là 1,6 tỷ đồng, vốn ngân sách xã: 8,5 tỷ đồng, vốn ngân sách cấp trên: 3,95 tỷ đồng  (cả tiền hỗ trợ xi măng 298 tấn), vốn nhân dân tự đầu tư xây dựng, chỉnh trang nhà cửa và các công trình phụ trợ là: 68,3 tỷ đồng.

Toàn xã đã hoàn thành 15/19 tiêu chí Xây dựng nông thôn mới. Còn 4 tiêu chí, phấn đấu hoàn thành vào nhiệm kỳ sau là tiêu chí thủy lợi nội đồng và tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất, Năm 2016 hoàn thành 02 tiêu chí là tiêu chí: Giao thông nội đồng và tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa.  

Công tác Quốc phòng - An ninh

Quốc phòng: Công tác quân sự quốc phòng được Đảng ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm. Xây dựng lực lượng dân quân cơ động, dân quân tại chỗ, lực lượng dự bị động viên. Chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến và nhiệm vụ tuyển quân hằng năm. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị quốc phòng cho cán bộ đảng viên, lực lượng dân quân, công an xã và nhân dân, nâng cao cảnh giác làm thất bại chiến lược, âm mưu, “Diễn biến hòa bình” “Bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.

An ninh: Tiếp tục thực hiện tốt công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thường xuyên kiện toàn củng cố ban chỉ đạo an ninh trật tự xã, 9 tổ bảo vệ an ninh trật tự thôn và 83 Tổ an ninh xã hội. Cuộc vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, phong trào phòng chống các tội phạm và tệ nạn xã hội. trong nhiệm kỳ tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định. Số tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều hướng giảm, 100% số khu dân cư đảm bảo an toàn về an ninh trật tự.

3. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị

Công tác xây dựng Đảng: là một trong những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ xã tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ chính trị về đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và triển khai thực hiện các chuyên đề hàng năm nghiêm túc. Hàng năm Đảng ủy đều ra được nghị quyết chuyên đề về công tác quốc phòng - an ninh, tuyên truyền, quán triệt và vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, tiết kiệm trong việc cưới việc tang. Kết quả qua các đợt học tập chính trị và các cuộc vận động đã làm chuyển biến một bước về nhận thức tư tưởng của cán bộ đảng viên và nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

     Công tác tổ chức và cán bộ: Kết quả phân loại tổ chức đảng và đảng viên hàng năm cho thấy chất lượng của tổ chức đảng và đảng viên đã được nâng lên, năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ chi bộ đạt TSVM trung bình hàng năm 80% thấp hơn mục tiêu Đại hội 20%, tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ bình quân đạt 89,9%, đạt mục tiêu đại hội. Công tác phát triển Đảng thường xuyên được quan tâm, trong nhiệm kỳ đã lựa chọn 36 quần chúng ưu tú đi học cảm tình Đảng, kết nạp được 26 đảng viên mới, đạt 86,7% Nghị quyết.

  Công tác cán bộ: Ban Thường vụ Đảng ủy xã xác định công tác cán bộ là khâu then chốt, có tính quyết định trong việc nâng cao hiệu quả công tác, thực hiện Nghị quyết TW3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 04 - NQ/TU, ngày 13/2/2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về "tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu Thanh Hóa thành tỉnh tiên tiến vào năm 2020" và Nghị quyết số 03 - NQ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về "xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu thời kỳ CNH - HĐH", Ban Chấp hành Đảng bộ đã thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiÖm vô. Trong 5 năm qua đã cử đi học đại học, cao đảng 11đ/c; trung cấp chuyên môn 02 đ/c; học trung cấp lý luận chính trị 08 đ/c.

Công tác kiểm tra, giám sát: Ban chấp hành Đảng bộ xác định công tác kiểm tra giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Vì vậy Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thường xuyên theo kế hoạch. Kiểm tra các chi bộ trong việc triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của cấp trên, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm, nhằm phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm của các chi bộ và đảng viên kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, hạn chế tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật. UBKT Đảng ủy và các cấp ủy chi bộ thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền, trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật 5 đồng chí trong đó; cách chức cấp ủy Chi bộ 01 đồng chí, cảnh cáo 04 đồng chí, góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật trong Đảng.

Công tác dân vận: Trong 5 năm (2010 - 2015), khối dân vận Đảng ủy đã phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, vận động nhân dân thực hiện tốt chương trình Xây dựng nông thôn mới, xây dựng kế hoạch triển khai cho 9/9 thôn tổ chức thành lập tổ dân vận, làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở, vận động nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, đặc biệt Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, nhằm huy động sức dân để Xây dựng nông thôn mới, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XI) của Đảng: Nghị quyết TW4 khóa XI của Đảng được được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm. Ban Chấp hành Đảng bộ đã triển khai quán triệt tinh thần nghị quyết đến toàn thể cán bộ đảng viên. Với nội dung trọng tâm của nghị quyết là “Ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp”. Xác định rõ thẩm quyền trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể, cơ quan, đơn vị. Ban Chấp hành Đảng bộ, các đồng chí Đảng ủy viên đã nghiêm túc kiểm điểm theo tinh thần gợi ý của Ban Thường vụ Huyện ủy, của Ban Chấp hành Đảng bộ, tiếp thu và giải trình các ý kiến góp ý của Ban Thường vụ Huyện ủy, các phòng ban, ngành của Huyện ủy, UBND huyện, cán bộ chủ chốt đã nghỉ hưu tại địa phương và góp ý của các đơn vị trực thuộc. Các chi bộ và đảng viên đều thực hiện kiểm điểm nghiêm túc theo tinh thần Nghị quyết TW4. Sau kiểm điểm, đa số cán bộ, đảng viên đã nhận thức rõ những ưu, khuyết điểm của mình và đã đăng ký khắc phục sửa chữa, nhất là cán bộ chủ chốt đã khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm của mình, giữ gìn đạo đức lối sống, đoàn kết nội bộ.

Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hướng dẫn của Ban Thường vụ Huyện ủy Thọ Xuân, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thọ Hải đã xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai, quán triệt Chỉ thị đến cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ; đoàn viên, hội viên của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội. Qua đó đã nâng cao được nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy lùi suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, lãng phí, tiêu cực; xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Đặc biệt năm 2012 thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XI) về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" Ban Chấp hành Đảng bộ đã lồng nghép việc triển khai chỉ thị, nghị quyết và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện "Làm theo" tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó chỉ đạo các ngành, đoàn thể chính trị - xã hội, các chi bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức xã, tùy vào từng vị trí công tác, chức trách nhiệm vụ được giao để xây dựng các chuẩn mực đạo đức; xây dựng lề lối, tác phong làm việc, gần dân, sát dân; nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao; ý thức kỷ luật; trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, chi bộ và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội theo Quyết định số 101-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Quyết định số 1089-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp".

Hoạt động của Hội đồng nhân dân: Trong nhiệm kỳ 2010 – 2015, Hội đồng nhân dân xã đã làm tốt chức năng của mình trên cơ sở các chủ trương Nghị quyết của Đảng, Hội đồng nhân dân đã quyết định những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cử tri; làm tốt công tác giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân và giám sát thực thi pháp luật trên địa bàn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Hoạt động của UBND: đã thực hiện tốt chức năng của mình trong việc quản lý hành chính nhà nước tại địa phương; làm tốt công tác quản lý, điều hành về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đặc biệt là quản lý tài chính ngân sách, đất đai, XDCB. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng; thực hiện tốt cơ chế “một cửa” tại UBND xã.

Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội: Ủy ban MTTQ thường xuyên phối hợp với chính quyền làm tốt công tác vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Luôn quan tâm đến việc xây dựng các phong trào ở các tổ chức thành viên và các ban công tác mặt trận thôn. Đã phối hợp tổ chức tốt các cuộc vận động như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, cuộc vận động toàn dân chung tay Xây dựng nông thôn mới, làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội, vận động nhân dân đoàn kết lương giáo.

Hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội: Trong nhiệm kỳ (2010 - 2015); các đoàn thể chính trị xã hội luôn bám sát chủ trương Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước để vận động đoàn viên, hội viên thực hiện. Hưởng ứng cuộc vận động toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động giúp nhau xóa đói giảm nghèo và các cuộc vận động do tổ chức hội phát động. Tỷ lệ tập hợp đoàn viên thanh niên đạt 60%, tỷ lệ hội viên phụ nữ tham gia sinh hoạt đạt trên 86%, hội CCB đạt trên 96% và hội Nông dân đạt 76%. Các đoàn thể: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, hội Nông dân và Hội CCB luôn được Ban Chấp hành Đảng bộ và huyện hội đánh giá là đơn vị đạt vững mạnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Hoạt động của các tổ chức xã hội: Hoạt động của hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội Cựu Thanh niên xung phong, Hội Chữ thập đỏ, Hội Cựu giáo chức, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hội nạn nhân chất độc da cam, Hội làm vườn, Hội đông y luôn thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ hội. Các tổ chức xã hội đã tăng cường công tác vận động hội viên chấp hành tốt các chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, nghĩa vụ công dân, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, song Đảng bộ Thọ Hải đã tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện hoàn thành và vượt mức các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; quốc phòng - an ninh được giữ vững. Một số mục tiêu đạt và vượt cao như thu - chi ngân sách, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, Xây dựng nông thôn mới; đời sống vật chất, tinh thần của nhân được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới; khối đại đoàn kết toàn dân được xây dựng vững chắc, hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được nâng lên.

Bên cạnh những kết quả đạt được còn những tồn tại, hạn chế   

Về kinh tế: Không hoàn thành việc thành lập HTX dịch vụ nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm, chưa tạo được bước đột phá về phát triển kinh tế. Sản xuất vụ đông trên đất 2 lúa không mở rộng được diện tích, nhiều sứ đồng bỏ dặm không làm vụ đông. Tình hình sản xuất chăn nuôi gặp khó khăn do giá cả thị trường thấp không có lợi cho người nông dân. Chăn nuôi gia súc trong hộ gia đình giảm đáng kể, đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp, nên số trang trại, gia trại ít.

Văn hóa - xã hội: Chất lượng hoạt động, điều hành thực hiện quy ước, hương ước làng văn hóa ở một số làng chưa tốt, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang và lễ hội chưa thực sự nghiêm túc. Vệ sinh môi trường, nước thải chăn nuôi ở một số khu dân cư còn ô nhiễm làm ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân. Một số trục đường liên thôn, liên xã và ở trong khu dân cư bị xe quá tải phá hoại chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.

  Quốc phòng - an ninh: Công tác tuyển quân hàng năm với số lượng không lớn nhưng vẫn còn khó khăn. Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý số thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự. Tình hình an ninh, an toàn trật tự xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng tình trạng trộm cắp ở một số thời điểm như: Trộm cắp chó, trộm cắp xe máy.., vẫn xảy ra, nạn cờ bạc, số đề, nghiệm hút vẫn lén lút hoạt động, chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời, một số tổ an ninh trật tự hoạt động chưa hiệu quả.

Về quản lý đất đai, tài nguyên môi trường: Quản lý đất thầu, quản lý các khu nghĩa địa còn lõng lẽo để tự do mua bán đất xây mồ mã không đúng quy định. Quản lý tài nguyên môi trường để khai thác cát sỏi bừa bãi gây bức súc trong nhân dân. 

Về công tác xây dựng Đảng: Việc chấp hành các Chỉ thị, Nghị quyết của một số đảng viên chưa nghiêm, chưa thực sự gương mẫu cho quần chúng noi theo; một số đảng viên còn ngại tham gia sinh hoạt dẫn đến thiếu vắng nhiều; trong nhiệm kỳ vẫn còn một số đảng viên vi phạm kỷ luật, một số chi bộ vẫn không kết nạp được đảng viên mới. Trong nhiệm kỳ chưa biên soạn được cuốn "lịch sử Đảng bộ".

Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội: Phong trào hoạt động của các tổ chức đoàn thể chưa thường xuyên, nhiều chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước đến với hội viên còn chậm, hoạt động của một số chi đoàn, chi hội chưa đều, tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên chưa cao; một số Cấp ủy chưa thực sự quan tâm đến hoạt động của các đoàn thể ở thôn.

4. Thọ Hải tiếp tục nông nghiệp hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới 2015 - 2018

  Thực hiện Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 30-5-2014 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 90 - KH/TU ngày 08-10-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hoá triển khai thực hiện Chỉ thị 36 - CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Hướng dẫn số 10 - HD/BTCTU ngày 14-10-2014 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Thanh Hoá về Hướng dẫn công tác nhân sự Đại hội đảng bộ cấp huyện và cơ sở, nhiệm kỳ 2015-2020, trong 2 ngày 01 và 02-6- 2015, Đảng bộ xã Thọ Hải tiến hành Đại hội lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2015-2020. Tham dự Đại hội có 230 đảng viên của 12 Chi bộ trong toàn Đảng bộ.

 Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XXVIII gồm 13 đồng chí và bầu ra 3 đồng chí trong Ban Thường vụ, đồng chí Lê Viết Hùng được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã, đồng chí Nguyễn Văn Thời được bầu làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Mai Đình Cường được bầu làm Phó Bí thư Thường Trực xã.   

Đại hội đã đưa ra Phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 - 2020

Phương hướng chung: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng thành công mục tiêu quốc gia về “Xây dựng nông thôn mới” bền vững, phát huy nội lực, tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, khuyến khích sản xuất theo hướng hàng hóa nâng cao giá trị sản xuất trên đất nông nghiệp, quan tâm phát triển ngành nghề, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, phát huy tối đa nguồn lực con người, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo theo hướng xã hội hóa, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, nâng cao năng lực quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững mạnh, phấn đấu đến năm 2020 là Đảng bộ trong tốp đầu của huyện.

Các chỉ tiêu chủ yếu: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đến năm 2020 đạt 96.589 tỷ đồng, sản lượng lương thực có hạt bình quân 4.560 tấn/năm, diện tích, năng suất, sản lượng các cây trồng chủ yếu năm 2020: Cây lúa có diện tích là 470 ha, năng suất: 6 tấn/ha. sản lượng: 2.820 tấn. Cây ngô có diện tíc là 300 ha, năng suất: 5,8 tấn /ha, sản lượng: 1740 tấn. Cây lạc có diện tích 45 ha, năng suất là 1,9 tấn/ha, sản lượng là 84 tấn. Cây mía có diện tích 120 ha, năng suất là 79 tấn/ha. sản lượng: 9.524 tấn. Cây đậu tương có diện tích là 20 ha, năng suất 10 tạ/ha, sản lượng là 20 tấn. Tổng đàn gia súc, gia cầm năm 2020: đàn trâu đạt 445 con; đàn bò đạt 803 con, đàn lợn đạt 1.363 con, đàn gia cầm đạt 23.000 con. Số hộ sản xuất, kinh doanh cá thể vào năm 2020 phấn đấu đạt 1.200 hộ, trong đó hộ nông nghiệp 900 hộ; tiểu thủ công nghiệp: 86 hộ; dịch vụ: 214 hộ; phấn đấu đến năm 2020 doanh nghiệp trên địa có 6 doanh nghiệp và 7 trang trại. Đến năm 2020 tỷ lệ tăng thu ngân sách hàng năm tăng 5% trở lên; thu nhập bình quân đạt  45 triệu đồng/người/năm, đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020 đạt 100%; đường giao thông trên địa bàn được cứng hóa 100%.

Đại hội đã đưa ra các chương trình trọng tâm

Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình Quốc gia về Xây dựng nông thôn mới, phấn đấu hoàn thành chương trình Xây dựng nông thôn mới vào năm 2016 một cách bền vững .

Chương trình phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất, tích cực tích tụ ruộng đất để phát triển các vùng chuyên canh, phát triển trang trại, gia trại, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

   Xã Thọ Hải nằm bên bờ sông Chu và tiếp giáp với các xã: Phía đông giáp xã Xuân Hòa; phía tây giáp xã Thọ Diên; phía nam giáp xã Xuân Hưng và xã Xuân Giang; phía bắc giáp xã Thọ Minh và xã Thọ Lập.

Vị trí địa lý của xã thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho xã tiếp cận nhanh với thị trường vùng lân cận, thúc đẩy quá trình giao lưu hàng hóa, thích ứng với nền kinh tế thị trường; Hệ thống giao thông thủy lợi rất thuận tiện; Thọ Hải có đường Quốc lộ 47C chạy qua, đường liên xã, liên thôn tạo thành mạng lưới giao thông thuận tiện, là xã đồng bằng trung du địa hình tương đối bằng phẳng.

Bao thế hệ người Thọ Hải đã dũng cảm chống trọi với thiên nhiên khắc nghiệt vỡ đất, gieo trồng, rồi dựng nhà, dựng cửa, lập nên xóm, nên làng. Từ cụm dân cư ban đầu như: Vùng ngoại đê: thôn Hải Khoát, thôn Mậu Công, và làng Rạch. Nội đê: thôn Phấn Thôn, thôn Công Thành và thôn Hưng Nhượng. Ở các thôn nhân dân ở lẫn với nhau1. Trải qua nhiều thế kỷ, làng xã ở Thọ Hải đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Năm 1935 chi bộ Thọ Hải ra đời, hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Thọ Xuân, Đảng bộ từng bước trưởng thành về mọi mặt, lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn, thử thách hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của địa phương, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Lịch sử ra đời và phát triển của Thọ Hải gắn liền với phong trào của nhân dân trong vùng nhân dân Thọ Xuân. Từ buổi đầu về đây mở đất lập làng đến nay, nhân dân Thọ Hải đã biết khai thác những tiềm năng lợi thế của mảnh đất quê hương, chống chọi với thiên nhiên xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong quá trình ấy, nhân dân Thọ Hải đã hun đúc nên phẩm chất cao quý, đó là: truyền thống yêu nước, thương nòi, tình yêu quê hương tha thiết và tinh thần cần cù sáng tạo, lạc quan, yêu lao động được kết tinh từ nhiều thế kỷ.

Phong trào Cần Vương cứu nước ghi đậm tinh thần đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của lịch sử dân tộc, nhân dân Thọ Hải tự hào rằng: Trong mảnh đất này, lớp cha ông đã góp phần làm nên trang sử hào hùng ấy. Phong trào Cần vương tuy thất bại, nhưng đó là một khúc ca bi tráng trong truyền thống yêu nước của quê hương, để rồi, khi có ngọn cờ của Đảng lãnh đạo, truyền thống ấy được nhân lên thành làn sóng cách mạng mạnh mẽ, cuốn phăng mọi áp bức xiềng gông cùm trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước công nông trên đất nước ngàn năm văn hiến.

 

Từ mùa xuân 1930, sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đưa đến những bước ngoặt vĩ đại mang tính cách mạng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung Thọ Hải nói riêng. Chi bộ Đảng của xã ra đời là một sự phát triển tất yếu trong tiến trình cách mạng của địa phương. Trong suốt thời gian tồn tại, Chi bộ đã không ngừng lớn mạnh, lãnh đạo Nhân dân xây dựng và củng cố chính quyền non trẻ, thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng. Trong những ngày vận mệnh Tổ quốc “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền non trẻ ở Thọ Hải đã vượt qua muôn vàn khó khăn: từng bước củng cố chính quyền, ổn định đời sống nhân dân, đóng góp xứng đáng sức người và sức của cho kháng chiến.

 Thực tế lịch sử xã Thọ Hải, đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định, mọi thắng lợi của cách mạng; quá trình ra đời, hoạt động, và lãnh đạo cách mạng của Đảng và lịch sử của nhân dân Thọ Hải là một pho lịch sử bằng vàng.

 Từ một nền kinh tế canh nông đã bị tê liệt trước năm 1945, nông nghiệp đã được duy trì và phát triển, với sản lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa ngày càng dồi dào hơn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc kháng chiến và đời sống nhân dân.Trong 10 năm (1945 - 1954), Đảng bộ Thọ Hải đã hoàn thành sứ mệnh là nền tảng của kinh tế kháng chiến với những đóng góp to lớn giải quyết nạn đói 1945 - 1946, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cung cấp sức người sức của cho kháng chiến, hình thành những nền tảng để phát triển nông nghiệp trong những giai đoạn tiếp theo.Chặng đường 20 năm (1955-1975) là thời kỳ đặc biệt của quá trình xây dựng và phát triển ngành Nông nghiệp ở Thọ Hải, khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau, chịu nhiều thách thức to lớn trong và ngoài nước, chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, Thọ Hải đã phát triển những mô hình nông nghiệp mà cả nước học tập như hợp tác xã Đông Phương Hồng và nhận được thư khen ngợi của Bác…" Thọ Hải, đã hoàn thành vai trò mặt trận hàng đầu trong xây dựng hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đất nước được độc lập, tự do, mở ra cơ hội và điều kiện thuận lợi để khai thác tiềm năng, thế mạnh về sản xuất nông nghiệp ở Thọ Hải.

Một là, Đảng bộ Thọ Hải đã góp phần chung vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.

Hai là Đảng bộ Thọ Hải đã quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng, nắm chắc nhiệm vụ chính trị vận dụng vào tình tình của xã một sáng tạo và linh hoạt. Trải qua lịch sử 70 năm hình thành và phát triển, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước và Chính phủ quan tâm và coi trọng; sự phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển đất nước từ thời kháng chiến kiến quốc đến giai đoạn thống nhất đất nước và đổi mới hiện nay.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhằm phát triển sản xuất nhưng giai đoạn này sản nông nghiệp ở miền Bắc nói chung Thọ Hải nói riêng vẫn mang nặng tính bình quân, bao cấp; còn ở miền Nam, phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh nhưng không bền vững;…

Trước tình hình đó, từ những thí điểm hình thức khoán trong sản xuất nông nghiệp ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh năm 1980, Đảng, Nhà nước đã có chủ trương mở rộng hình thức khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW - chuyển sang cơ chế quản lý mới trong sản xuất nông nghiệp trong cả nước trong đó có Thọ Hải, tạo đà cho phát triển và đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.

Đặc biệt, từ năm 1986 (Đại hội Đảng VI), Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế, biện pháp mới nhằm giải phóng sức sản xuất, phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ vậy, nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở Thọ Hải đã có những chuyển biến mạnh mẽ.

Nhìn lại, 30 năm đổi mới vừa qua đã đánh dấu bước phát triển thần kỳ của nông nghiệp ở Thọ Hải. Thành công trong lĩnh vực nông nghiệp là một trong những thành tựu rõ rệt nhất của quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở Thọ Hải thời gian qua,có được kết quả to lớn đó là có sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thọ Xuân mà trực tiếp là Đảng bộ xã Thọ Hải. Từ chỗ người dân khủng hoảng thiếu lương thực cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đã trở thành điểm học tập về mô hình hợp tác xã nông nghiệp cho cả nước như "Đông Phương Hồng" trong kháng chiến chống Mĩ và thời kỳ đổi mới và đến nay Thọ Hải đã vươn lên trở thành xã có nhiều đặc sản về các mặt hàng nông sản nhiệt đới đứng hàng đầu cả nước như nem chua, bánh gái…

Toàn bộ nền kinh tế đã chuyển vào giai đoạn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tài nguyên đang rút ra mạnh khỏi nông nghiệp, nông thôn; quá trình biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp; hội nhập kinh tế đi vào giai đoạn sâu rộng triệt để cùng nhiều thách thức và cơ hội mới, cạnh tranh thị trường trở nên quyết liệt; khoa học- công nghệ phát triển mạnh, các biến động chính trị kinh tế trên thế giới trở nên khó lường. Chính vì vây, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên và hướng vào thị trường dễ tính giá rẻ đã không còn phù hợp.

Đảng bộ Thọ Hải đã chỉ ra nền kinh tế và lĩnh vực nông nghiệp chỉ có thể tiếp tục tăng trưởng ổn định khi chuyển nhanh sang định hướng phát triển theo chiều sâu, tập trung vào hiệu quả, chất lượng, giá trị và vững bền.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và cấp ủy đảng các cấp, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thọ Hải đã tập trung thực hiện chương trình “Tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới” và hoàn thành chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới vào năm 2016 với các nội dung chính về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới thể chế, phát triển thị trường, nâng cao đời sống, thu nhập của người dân…

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Khóa XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa XVIII của tỉnh nghị quyết khóa XXVII của xã về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng mục tiêu, yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Đổi mới phương thức lãnh đạo của xã thông qua tổ chức Đảng và đảng viên.

Ba là, quán triệt vận dụng đúng đắn chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, của cấp ủy địa phương vào điều kiện hoàn cảnh xã nhà một cách kịp thời sáng tạo.

70 năm qua, nhờ nắm vững đường lối cách mạng của Đảng và biết vận dụng sát hợp với hoàn cảnh địa phương, Đảng bộ đã lãnh dạo xã nhà tạo ncn nhiều thắng lợi to lớn trong các phong trào của xã.

Đảng bộ xã Thọ Hải nhận thức sâu sắc rằng: Khi nào đường lối, chính sách của Đảng được quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn và sáng tạo, sát hợp với thực tế địa phương thì sẽ động viên được quần chúng, tạo được sức mạnh và giành được thắng lợi to lớn trong phong trào cách mạng ở địa phương.

Bốn là, lấy dân làm gốc, dựa vào nhân dân để xây dựng củng cố phát triển lực lượng cách mạng, đảm bảo thắng lợi cho các phong trào của địa phương. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và với mục tiêu phấn đấu vì lợi ích của nhân dân; thực hiện dân chủ với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiếm tra"; tôn trọng các quyền lợi, lợi ích của nhân dân, đồng thời kiên quyết khắc phục hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.

Vào những năm đầu sau khi chi bộ Thọ Hải ra đời, thưc hiện công cuộc cải cách ruộng đất. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ với khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã tạo nên sức mạnh to lớn trong nhân dân. Vào thời kỳ xây dựng hợp tác xã, với khẩu hiệu “Hợp tác là nhà, xã viên là chủ” tạo nên động lực lớn lao cho sư phát triển kinh tế - xã hội ở Thọ Hải tiêu biểu như Đông Phương Hồng. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh” đang được Đảng bộ và Nhân dân đoàn kết, phấn đấu và thực hiện với quyết tâm và sức mạnh to lớn.

Lịch sử phong trào cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã nhà đã chứng minh rằng: vai trò làm chủ của nhân dân là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của sự nghiệp cách mạng của địa phương. Khi nào vai trò của quần chúng được tôn trọng, quyền lợi và nghĩa vụ của quần chúng được xác định, công bằng, hợp lý thì phong trào quần chúng trở thành nguồn sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Năm là, phấn đấu xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ở địa phương.

Quán triệt quan điểm xây dựng Đảng cả về 3 mặt: chính trị; tư tướng và tổ chức, Đảng bộ luôn đề cao công tác xây dựng Đảng bộ để không ngừng lớn mạnh, đủ sức đảm đương sứ mệnh lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương.

Cùng với công tác chính trị tư tưởng, Đảng bộ đã xây dụng hệ thống tổ chức chặt chẽ, chăm lo phát triển đảng viên, xây dựng cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, thường xuyên quán triệt thực hiên tốt các cuộc vận động về chỉnh đốn và nâng cao sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Làm tốt công tác cán bộ, coi công tác cán bộ là một trong những nhân tố đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng. Làm tốt công tác xây dựng, bảo vệ củng cố chính quyền để có đủ quyền lực tổ chức điều hành, quản lý, phát triển xã hội đúng hướng. Đồng thời không ngừng chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương tạo nên khối đoàn kết toàn dân, mối liên hệ giữa Đảng với dân, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ cách mạng ở địa phương.

Những bài học trên đây là sự đúc kết quá trình hoạt động của Đảng bộ Thọ Hải, của phong trào cách mạng và các tầng lớp nhân dân xã nhà trong nhiều thế kỷ qua. Trên bước đường đi lên cùng với lịch sử dân tộc, thời cơ, vận hội nhiều và cũng không ít thách thức, khó khăn, song với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, với tinh thần cần cù lao động, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân, xã Thọ Hải phấn đấu trở thành xã Kiểu mẫu vào năm 2020, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Trong tập thơ: Đời ta có Đảng.

[2]    Khoán ước xã Thọ Hải.

1 Lam Sơn Thực Lục – Tr23

2 ĐVSKTT-III-Tr300 (NXB KHXH – Hà Nội, năm 1998)

3 Lam Sơn Thực Lục – Tr28

4 Khoán ước xã Thọ Hải

[3] Tức ông tổ bốn đời.

[4] Nơi đây ngày nay thuộc xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.

[5] Gia phả không ghi năm.

[6] Theo gia phả họ Lê Văn Linh.

1 Nguyễn Thận còn gọi là Lê Thận do ông được vua Lê TháI Tổ ban quốc tính.

1 Ngự danh tam thập ngũ danh.

1 Đề hiệu: Tức quan chủ khảo.

2 Lam Sơn hay còn gọi là Lam Kinh, nay thuộc làng Cham, thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hoá.

3 Hiển tổ: Tức ông nội.

1 Lịch triều hiến chương loại chí (2006), Nhân vật chí - Lê Văn Linh, Nhà xuất bản giáo dục.

2 Đại Nam nhất thống chí (2006), tập II - Tỉnh Thanh Hoá - Nhân vật - Lê Văn Linh, Nhà xuất bản Thuận Hóa.

[7] Lam Sơn thực lục, (Lê Văn Uông dịch, Nguyễn Diên Niên kháo chứng), tái bán, Nxb khoa học xã hội Hà Nội,

2006

[8] Đại Việt sứ ký toàn thư, tr 247                                                                      '

[9] Đại Việt sứ ký toàn thư, tr 300

1 Đại Việt sứ ký toàn thư, tr 392                                      -

[11] Làng Phấn Thôn

1 Tên của đơn vị tiền tệ.

2 Là đơn vị đo diện tích.

2 Tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam

[12] Cụ xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khổ.

[13] Chính quán: thôn Phúc Thương - Xuân Hội.

1 Nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Thọ Xuân.

[14] Thuộc khu vực làng Phấn Thôn, Hưng Nhượng.

[15] Quê đồng chí Thứ ở Xuân Hòa

1 Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

1 Lúc này  đồng chí Tạo là Cục trưởng cục Lâm Nghiệp.

1 Nguyễn Tự Sản còn có biệt danh Xuân Chung

[16] Chợ Hón đến năm 1988 đổi thành chợ Hương.

1 Đồng chí nữ trẻ Nguyễn Thị Khếnh làm Bí thư Chi bộ

2 Trong sản xuất Đông Phương Hồng đã được các nhà  khoa học nông nghiệp bám trụ giúp đỡ, chỉ đạo tận tình, đưa các giống lúa mới năng suất cao vào sản xuất, áp dụng các biện pháp gieo cấy thẳng hàng, làm phân xanh nuôi bèo hoa dâu, trồng điền thanh… vì thế năng suất lúa của Thọ Hải đạt 6,6 tấn/ha

1  Số: 11 GK

Ngày 02 tháng 3 năm 1966 Chào thân ái và quyết thắng  HỒ CHÍ MINH

 

 

1 Đảng cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.39

1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, hà Nội, 2006. T.47, tr.360

2 Xem Đảng cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Sdd, tr.50 - 51.

 

 

1 Trước cách mạng Tháng Tám là tổng Diên Hào, huyện Thọ Xuân nay là xã Thọ Hải huyện Thọ Xuân. 

  

Thủ tục hành chính

Địa chỉ tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về giải quyết TTHC
Địa chỉ tiếp nhận: Thôn Tân Thành, Xã Thọ Hải, Huyện Thọ Xuân
SĐT: 0237 8933 161
Email: xuanlamubndthohai@gmail.com